Keep on reading

Hướng Dẫn Đi Nhờ Vào Dải Ngân Hà (1)

Hướng Dẫn Đi Nhờ Vào Dải Ngân Hà

(The Hitchhiker’s Guide to the Galaxy)

Tác giả: Douglas Adams
Người dịch: conruoinho

Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.

Mục Lục

Lời Mở Đầu

 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9 – 10 – 11 – 12 – 13 – 14 – 15 – 16 – 17 – 18 – 19 – 20 – 

21 – 22 – 23 – 24 – 25 – 26 – 27 – 28 – 29 – 30 – 31 – 32 – 33 – 34 – 35


Căn nhà nằm trên một ngọn đồi nhỏ ngay bìa làng. Nó nằm một mình và nhìn ra một vùng đất chăn nuôi rộng lớn của khu West Country. Nhìn kiểu nào cũng chẳng phải là một ngôi nhà đáng chú ý – nó chừng ba mươi tuổi, thấp chủn ục ịch, vuông vức, xây bằng gạch, và có bốn cửa sổ phía trước với kích cỡ và sự cân đối vừa đủ để thấy ngứa mắt.

Căn nhà đó nếu có chút đặc biệt nào thì chỉ có Arthur Dent thấy vậy mà thôi, và chẳng qua vì nó vô tình trùng hợp là nơi anh sống. Anh đã ở đó chừng ba năm, ngay từ khi anh dọn ra khỏi London vì nơi đó làm cho anh thấy bồn chồn và khó chịu. Anh cũng chừng ba mươi tuổi, cao, tóc sẫm màu và chưa bao giờ thoải mái với chính mình. Điều từng làm cho anh lo lắng nhất là chuyện người ta thường hỏi vì sao anh trông có vẻ lo lắng thế. Anh làm việc tại một đài phát thanh địa phương, nơi mà anh luôn nói với bạn bè rằng nó thú vị hơn họ tưởng. Đa số bạn bè của anh làm trong ngành quảng cáo.

Tối hôm thứ tư trời mưa tầm tã, con đường ướt rượt lầy bùn, nhưng sáng thứ năm mặt trời sáng quắc và trong lành khi nó chiếu vào nhà của Arthur Dent một lần sắp sửa là lần cuối cùng.

Arthur vẫn chưa hoàn toàn nhận ra rằng hội đồng thành phố muốn phá bỏ nó để xây một đường vòng qua đó.

 

Vào lúc tám giờ sáng thứ năm Arthur cảm thấy không khỏe lắm. Anh lờ đờ tỉnh giấc, ngồi dậy, lừ đừ thẩn thơ trong phòng mình, mở cửa sổ, nhìn thấy một chiếc xe ủi, tìm thấy đôi dép lê, và rầm rập đi vào nhà tắm rửa ráy.

Kem đánh răng trên bàn chải – thế là. Chà.

Gương cạo râu – chíu thẳng lên trần nhà. Anh chỉnh nó lại. Trong phút chốc nó phản chiếu hình ảnh chiếc xe ủi thứ hai trên cửa sổ. Chỉnh lại đàng hoàng lần nữa thì nó phản chiếu hàm râu lởm chởm của Arthur Dent. Anh cạo râu, rửa mặt, lau khô và rầm rập đi vào nhà bếp để tìm thứ gì ngon lành cho vào miệng.

Ấm nước, phít điện, tủ lạnh, sữa, cà phê. Ngáp.

Từ chiếc xe ủi lởn vởn trong đầu anh trong chốc lát để tìm kiếm một thứ gì có thể liên tưởng đến.

Chiếc xe ủi ngoài cửa sổ nhà bếp khá to.

Anh đăm đăm nhìn nó.

“Màu vàng,” anh nghĩ, rầm rập trở về phòng ngủ để thay quần áo cho chỉnh tề.

Khi đi ngang nhà tắm anh dừng lại uống một cốc nước thật to, rồi một cốc nữa. Anh bắt đầu nghi ngờ có phải mình vừa tỉnh rượu. Vì sao mình lại tỉnh rượu? Có phải mình đã nhậu nhẹt hồi tối qua? Anh cho là chắc mình đã thế rồi. Anh nhìn thấy hình ảnh phản chiếu trong gương. “Màu vàng,” anh nghĩ, rồi chạy ầm ầm vào phòng ngủ.

Anh đứng lại suy nghĩ. Quán rượu, anh nghĩ. Ôi trời, quán rượu. Anh mang máng nhớ mình đã giận, giận vì một chuyện gì rất quan trọng. Anh đã kể cho mọi người nghe về chuyện đó, kể cho mọi người nghe đi nghe lại nữa là, anh hơi nghi ngờ: ký ức rõ ràng nhất anh nhớ được là những ánh mắt đanh thép trên gương mặt họ. Có điều gì đó về một đường vòng mà anh vừa mới biết đến. Chuyện đã nằm trong kế hoạch cả mấy tháng nay rồi nhưng dường như không ai biết gì về nó cả. Thật điên khùng. Anh uống nước òng ọc. Mọi chuyện sẽ tự sáng tỏ, anh quyết định thế, chả ai muốn có một đường vòng cả, hội đồng thành phố chẳng có cửa mà tiến hành. Mọi chuyện sẽ tự nó ổn cả thôi.

Chúa ơi, thế mà chuyện ấy đã ban cho anh một cơn đau đầu kinh khủng sau khi tỉnh rượu. Anh nhìn lại mình trong chiếc gương treo trên tủ áo. Anh thè lưỡi ra. “Vàng,” anh nghĩ. Từ vàng lởn vởn trong tâm trí anh tìm kiếm một thứ gì đó có thể liên tưởng đến.

Mười lăm giây sau anh đang ở ngoài nhà mình và nằm trước một chiếc xe ủi đất màu vàng đang tiến về lối đi vào khu vườn nhà anh.

 

 

Như người ta hay nói, ông L. Prosser cũng chỉ là người phàm thôi. Nói cách khác ông là một sinh vật sống có hai chân, làm bằng carbon, và bắt nguồn từ loài khỉ. Nói chi tiết hơn thì ông ta bốn mươi tuổi, mập mạp và thô bỉ và làm việc cho hội đồng địa phương. Lạ kỳ hơn, dù ông không hề hay biết, ông chính là hậu duệ chính thống của Thành Cát Tư Hãn, mặc dù sau nhiều thế hệ trung gian và kết hợp lộn xộn của nhiều chủng tộc làm gen di truyền của ông không còn trội lên những đặc trưng rõ rệt của người Mông Cổ nữa, và dấu vết duy nhất từ tổ tiên huy hoàng còn ở lại với ông L. Prosser là sự bè bè chình ình ngay phần bụng và một tình yêu tha thiết dành cho mấy chiếc mũ lông nhỏ xíu.

Ông chả phải là một chiến binh dũng mãnh gì sất; trên thực tế ông là một người hay lo lắng bồn chồn. Hôm nay ông đặc biệt lo lắng và bồn chồn vì một chuyện không hay cực kì nghiêm trọng đã xảy ra trong công việc, đó là phải giám sát việc phá bỏ nhà  Arthur Dent trước khi trời tối.

“Thôi đi nào, anh Dent,” ông nói, “anh chẳng thể thắng được đâu, anh cũng biết thế rồi. Anh không thể cứ nằm lì dưới chân máy ủi.” Ông cố phun lửa từ mắt mình nhưng chúng chẳng chịu nghe lời.

Arthur nằm trong đống bùn và đớp lại.

“Tôi chịu chơi tới cùng,” anh nói, “để coi đứa nào rỉ sét trước.”

“Tôi e rằng anh phải chấp nhận sự thật thôi,” ông Prosser nói, nắm chặt chiếc mũ lông của mình và xoay nó vòng vòng trên đầu; “đường vòng này phải được xây dựng và nó sẽ được xây dựng!”

“Lần đầu tiên tôi nghe tới nói,” Arthur nói, “tại sao nó phải được xây dựng chứ?”

Ông Prosser phe phẩy ngón tay mình về hướng anh một chốc, rồi dừng lại và rút tay về.

“Ý anh là sao, tại sao nó phải được xây dựng?” ông nói. “Nó là một đường vòng. Ta phải xây đường vòng.”

Đường vòng là đường để cho người ta phóng rất nhanh từ điểm A đến điểm B và phóng rất nhanh từ điểm B đến điểm A. Những người sống ở điểm C, là điểm nằm ngay chính giữa, thường hay tự hỏi điểm A có cái quỷ gì hay ho mà nhiều người điểm B muốn đến đó, và điểm B có cái quỷ gì hay ho mà nhiều người từ điểm A muốn đến. Họ thường ước rằng chỉ một lần thôi mọi người hãy quyết định họ muốn ở cái chỗ quỷ nào đi.

Ông Prosser muốn ở điểm D. Điểm D chẳng ở đâu đặc biệt cả, chỉ là một điểm bất kỳ vừa tiện nằm cách điểm A, B và C xa thật là xa. Ông muốn có một căn nhà nho nhỏ ở điểm D, trước cửa có treo vài cái rìu, và dành phần lớn thời gian tại điểm E, tức quán rượu gần điểm D nhất. Đương nhiên vợ ông muốn vài cành hồng leo, nhưng ông muốn những cái rìu. Ông chẳng biết tại sao – chỉ là ông thích rìu thế thôi. Mặt ông đỏ bừng dưới tiếng cười nhạo báng của đám tài xế xe ủi.

Ông nghiêng người chuyển sức nặng của mình từ chân này sang chân kia, nhưng cả hai bên đều không thoải mái như nhau. Rõ ràng đã có một người bất tài đến vô dụng và ông cầu xin Chúa đó không phải là mình.

Ông Prosser nói, “Anh đã có quyền kiến nghị hoặc phản đối vào thời điểm thích hợp, anh biết rồi đấy.”

“Thời điểm thích hợp?” Arthur chế giễu. “Thời điểm thích hợp? Lần đầu tiên tôi nghe biết chuyện là khi một công nhân đến nhà tôi ngày hôm qua. Tôi hỏi anh đến để lau chùi cửa sổ phải không, anh ta nói không phải, anh ta đến để dỡ nhà. Đương nhiên là anh ta đâu thèm nói thẳng với tôi ngay. Không đâu. Đầu tiên anh ta chùi vài cái cửa sổ rồi tính tôi năm bảng. Sau đó anh ta mới nói với tôi.”

“Nhưng anh Dent, bản kế hoạch đã được công khai tại văn phòng quy hoạch địa phương cả chín tháng trời nay rồi.”

“Ồ đúng thế, này nhé, vừa nghe tin là tôi đi thẳng đến đó để xem, ngay trưa hôm qua. Các người đã không dốc hết sức mình để khiến người khác phải chú ý đến nó, đúng không nào? Ý tôi là, chẳng hạn như nói cho người khác biết về nó.”

“Nhưng bản kế hoạch được trưng  bày…”

“Được trưng bày? Mãi tôi mới xuống được tầng hầm để tìm chúng.”

“Đó chính là khu vực trưng bày.”

“Còn phải dùng cả đèn pin nữa.”

“À, ừ thì, mấy bóng đèn chắc bị hư.”

“Cả cái cầu thang cũng thế.”

“Nhưng này, anh đã tìm thấy thông báo, đúng không?”

“Đúng,” Arthur nói, “đúng tôi đã tìm thấy. Nó nằm ở dưới cùng cái ngăn tủ được khóa lại và mắc kẹt sau cái toa lét bị bỏ xó trên cửa có gắn biển ghi ‘Coi chừng Báo dữ.’”

Một đám mây trôi lơ lửng qua. Nó che bóng trên đầu Arthur Dent khi anh nằm chống cùi chỏ lên trong đống bùn lạnh giá. Nó che bóng trên nhà Arthur Dent. Ông Prosser nhăn mặt nhìn.

“Nó cũng chả phải là căn nhà đẹp đẽ gì cho cam,” ông nói.

“Xin lỗi, như vừa vặn là tôi thích nó.”

“Anh sẽ thích con đường vòng.”

“Thôi, im đi,” Arthur Dent nói. “Im miệng và biến ngay đi, đem theo cả con đường vòng quái quỷ của mấy người đi luôn giùm tôi. Mấy người chẳng có lý do chính đáng nào để làm thế và mấy người cũng biết điều đó.”

Ông Prosser há miệng và đóng nó lại vài lần trong khi đầu ông chốc lại tràn ngập những viễn cảnh không thể giải thích nhưng lại khá  là hấp dẫn: nhà Arthur Dent bị lửa thiêu rụi và chính Arthur vừa chạy vừa la ó ầm ĩ muốn thoát khỏi đống đổ nát sáng rực, đằng sau lưng anh là ba ngọn giáo to đùng thò ra. Ông Prosser thường bị những viễn cảnh như thế này làm phiền và chúng khiến ông thấy rất hồi hộp. Ông lắp bắp một hồi rồi tự chỉnh chu lại mình.

“Anh Dent,” ông nói.

“Xin chào? Có gì không?” Arthur đáp.

“Vài thông tin thực tế cho anh đây. Anh có biết chiếc xe ủi này sẽ chịu bao nhiêu thiệt hại nếu tôi cứ để nó lăn ngay qua người anh không?”

“Bao nhiêu?” Arthur nói.

“Không gì cả,” ông Prosser trả lời, và nơm nớp bỏ đi, lòng tự hỏi vì sao não mình có đầy hình ảnh cả ngàn kỵ sĩ lông lá đang la lối ông.

 

Một sự trùng hợp đáng tò mò, “Không gì cả” cũng vừa chính xác là con số chỉ độ nghi ngờ mà chàng hậu duệ của loài khỉ Arthur Dent dành cho một trong những người bạn thân thiết nhất của mình rằng gã không phải là hậu duệ của loài khỉ, mà thật ra gã đến từ một hành tinh nằm đâu đó trong vùng lân cận của Betelgeuse và không phải từ Guildford như gã thường tự khai.

Arthur Dent chưa hề, chưa bao giờ nghi ngờ điều này.

Anh bạn này đến Địa cầu lần đầu tiên chừng mười lăm năm trước, và gã đã cật lực để hòa nhập vào xã hội Địa cầu – với, phải công nhận rằng, chút thành công. Ví dụ như, gã đã dành hết mười lăm năm để giả làm một chàng diễn viên không có việc làm, xem ra cũng có vẻ hợp lý.

Mặc dù vậy, gã đã có vài chuyện hớ hênh do bất cẩn, vì gã đã hơi keo kiệt trong khâu nghiên cứu chuẩn bị của mình. Những thông tin gã thu thập được đã khiến gã chọn cái tên “Ford Prefect” cho rằng nó khá kín đáo tế nhị.

Gã cao một cách không lộ liễu, những đặc điểm của gã khá đáng nhớ nhưng không đẹp trai lồ lộ. Tóc gã cưng cứng và đo đỏ và được chải ngược sau thái dương. Da gã dường như bị kéo ngược từ lỗ mũi. Có điều gì đó hơi kì quặc trong gã, nhưng khó có thể nói đó là gì. Có lẽ đôi mắt gã dường như không chớp thường xuyên cho lắm và khi bạn nói chuyện với dù cuộc trò chuyện có dài ngắn ra sao thì đôi mắt bạn bắt đầu chảy nước mắt một cách không tự nguyện giùm cho gã. Có lẽ gã cười quá toe toét khiến người ta có ấn tượng mất bình tĩnh vì cho rằng gã sắp sửa làm gì đó với cái cổ của họ.

Gã khiến đa số những bạn bè gã kết thân được trên Địa cầu đều cho rằng gã quái đản, nhưng là một kẻ quái đản vô hại – một tên nát rượu phóng túng với vài thói quen kỳ cục. Ví dụ, gã thường không mời mà đến những buổi tiệc tùng ở trường đại học, nhậu say bí tỉ và bắt đầu chọc phá bất kỳ những nhà vật lý thiên thể nào gã có thể tìm được cho đến khi bị đuổi ra ngoài.

Đôi khi gã có những cơn tê liệt với tâm trạng quẫn trí và đăm đăm nhìn lên bầu trời như bị thôi miên đến khi ai đó hỏi gã đang làm gì thế. Rồi gã bắt đầu vẻ áy náy một hồi, thư giãn và cười toe.

“Ồ, tôi chỉ đang tìm kiếm mấy chiếc đĩa bay,” gã sẽ đùa, và mọi người sẽ cười vang và hỏi gã đang tìm loại đĩa bay nào thế.

“Loại màu xanh lá!” gã sẽ trả lời với nụ cười nham hiểm, cười hoang dại một chốc và rồi bỗng dưng tìm đến quán ba gần đó nhất và mua một loạt đồ uống cho mọi người.

Những buổi tối như thế thường kết thúc thảm hại. Ford uống whisky cho đến khi đầu óc quáng gà quáng vịt, gã nhốn nháo ở một xó xỉnh với một cô nàng nào đó và dùng những câu từ lè nhè để giải thích cho cô ta nghe rằng thật lòng mà nói thì màu sắc của mấy chiếc đĩa bay chẳng có phải chuyện quan trọng thật sự gì.

Rồi sau đó, đi lảo đảo vừa tí bỉ vừa tỉnh táo bước xuống những con phố đêm, gã thường hỏi mấy chú cảnh sát qua lại rằng họ có biết đường đến Betelgeuse không. Đám cảnh sát thường sẽ nói những câu đại loại như, “Thưa ông, ông không nghĩ đã đến giờ về nhà rồi sao?”

“Tôi đang cố, bé cưng ạ, tôi đang cố đây,” là điều Ford lúc nào cũng đều đáp lại trong những trường hợp này.

Sự thật thì cái mà gã thật sự đang tìm khi chăm chú nhìn lơ đễnh trên trời là bất cứ một loại đĩa bay nào đó. Lý do gã nói màu xanh lá vì đó là màu của những tàu không gian chuyên dụng truyền thống thuộc về các hãng tàu bay thương mại Betelgeuse.

Ford Prefect tuyệt vọng muốn bất cứ một loại đĩa bay nào đó mau đến đó vì mười lăm năm là một thời gian quá dài để bị mắc kẹt ở bất kì đâu, đặc biệt những nơi chán đến không thể tin được như Địa cầu.

Ford ước rằng một chiếc đĩa mau sẽ mau đến vì gã biết cách vẫy đĩa bay xuống để xin họ cho đi nhờ. Gã biết làm cách nào để thấy Những điều Kỳ Diệu của Vũ trụ chỉ với không tới ba mươi đô la Altary một ngày.

Thật sự thì, Ford Prefect là một nhà nghiên cứu lang thang của quyển sách xuất chúng toàn diện, Hướng Dẫn Đi Nhờ Vào Dải Ngân Hà.

 

Loài người là những kẻ có khả năng thích nghi tuyệt vời, tới giờ trưa thôi cuộc sống diễn ra xung quanh nhà Arthur đã ổn định với một quy trình đều đặn. Đó là vai trò đã được Arthur chấp nhận: nằm đó ì ọp trong đống bùn và thỉnh thoảng đòi gặp luật sư của mình, hoặc mẹ mình, hoặc một quyển sách hay; đó là vai trò đã được ông Prosser chấp chận: xử trí mấy trò ma mãnh mới mà thỉnh thoảng Arthur nghĩ ra bằng cách dùng bài diễn văn Để Tốt Cho Quần Chúng, hoặc Tiến Bước Đến Sự Phát Triển, hoặc Họ Cũng Từng Đập Nát Nhà Tôi Đấy Cậu Biết Không và cả mấy lời phỉnh phờ lẫn hăm he đe dọa; và đó là vai trò đã được đám tài xế xe ủi chấp nhận: ngồi chơi xơi nước uống cà phê và tính toán giả định theo luật lệ của công đoàn xem làm cách nào để họ có thể chuyển hóa tình huống này thành lợi thế về mặt tài chính.

Trái đất vẫn chậm chạp xoay chuyển theo hướng đi hằng ngày của nó.

Mặt trời bắt đầu làm khô đi đống bùn nơi Arthur đang nằm.

Một bóng râm lại di chuyển ngang qua người anh.

“Xin chào, Arthur,” bóng râm nói.

Arthur nhìn lên và nheo mắt về hướng mặt trời, bất ngờ khi thấy Ford Prefect đang đứng trước mình.

“Ford! Chào anh, anh khỏe chứ?”

“Khỏe,” Ford nói, “này, anh có bận không?”

“Tôi có bận không?” Arthur thảng thốt. “À, tôi chỉ có  mỗi việc nằm trước mấy chiếc xe ủi và đống vớ vẩn này thôi vì họ sẽ đập nát nhà tôi nếu tôi không làm vậy, nhưng ngoài chuyện đó ra… à, không, không có gì đặc biệt, sao thế?”

Ở Betelgeuse họ không kiểu nói chuyện mỉa mai, và Ford Prefect thường thất bại trong việc nhận ra âm điệu trong giọng nói trừ khi gã tập trung lắm. Gã nói, “Tốt, vậy có chỗ nào để mình nói chuyện không?”

“Cái gì?” Arthur Dent đáp.

Trong vài giây sau đó dường như Ford lờ anh đi, và gã bắt đầu đăm đăm ngó lên trời như một con thỏ đang cố gắng để được xe hơi cán chết. Rồi đột nhiên gã ngồi xổm xuống cạnh Arthur.

“Chúng ta phải nói chuyện,” gã gấp gáp nói.

“Được thôi,” Arthur đáp, “nói đi.”

“Và uống nữa,” Ford nói. “Rất vô cùng quan trọng là chúng ta phải nói và uống. Ngay bây giờ. Chúng ta sẽ đến quán rượu trong làng.”

Gã nhìn lên bầu trời lần nữa, lo lắng, mong ngóng.

“Này, anh không  hiểu sao?” Arthur quát. Anh chỉ tay về hướng ông Prosser.

“Ông kia muốn đập nát nhà tôi!”

Ford liếc nhìn ông ta, ngạc nhiên.

“Thì, ông ấy có thể đập nó lúc anh đi vắng chứ, không được sao?” gã hỏi.

“Nhưng tôi không muốn ông ta làm vậy!”

“À.”

“Này, anh sao thế, Ford?”Arthur nói.

“Không. Không gì cả. Nghe tôi đây – tôi phải nói cho anh biết chuyện quan trọng nhất anh từng nghe thấy. Tôi phải nói cho anh biết ngay bây giờ, phà tôi phải nói cho anh biết ở quầy rượu hạng sang trong quán Horse and Groom (Ngựa và Người giữ ngựa).”

“Nhưng tại sao?”

“Bởi vì anh sẽ cần một ly rượu mạnh.”

Ford chăm chăm nhìn Arthur, và Arthur kinh ngạc khi nhận ra ý chí của mình bắt đầu lung lay. Anh không nhận ra đó là vì  một trò uống rượu cũ xưa mà Ford học chơi được ở mấy cánh cổng siêu không gian nơi có vành đai khai khoáng mỏ madranite trong hệ thống sao Orion Beta.

Trò này không giống mấy trò của Địa cầu có tên gọi đấu vật Ấn Độ, nó được chơi thế này:

Hai đấu thủ ngồi hai bên cạnh bàn, mỗi người có một ly trước mặt mình.

Đặt giữa họ là một chai Rượu Janx (thứ đã được lưu danh muôn thuở trong bài hát khai mỏ Orion cổ xưa đó, “Ồ, đừng cho tôi thêm chút nào thứ Rượu cũ Janx/Không, đừng cho tôi thêm chút nào thứ Rượu Janx cũ ấy/Vì đầu tôi sẽ bay, lưỡi tôi sẽ dối, mắt tôi sẽ cay và tôi có thể chết ngay/Đừng đổ thêm chút nào vào ly tôi thứ Rượu Janx cũ tội lỗi này”).

Rồi mỗi đấu thủ sẽ tập trung ý chí của mình vào cái chai và cố làm cho nó nghiêng một bên để đổ rượu vào ly của đối phương, người sẽ phải uống thứ ấy.

Chai rượu sẽ được đổ đầy lại. Và cuộc chơi tiếp tục. Và tiếp tục nữa.

Một khi bạn bắt đầu thua thì chắc hẳn bạn sẽ tiếp tục thua, vì một trong những tác dụng của Rượu Janx là đè nén năng lực siêu nhiên.

Ngay khi một lượng rượu định sẵn được uống hết, người thua cuộc cuối cùng phải biểu diễn một màn diễn phạt, và thường đó là mấy trò sinh lý tục tằn.

Ford Prefect thường chơi để mà thua.

 

Ford nhìn chòng chọc vào Arthur, người đang bắt đầu nghĩ rằng có lẽ xét cho cùng thì mình muốn đến Horse and Groom.

“Nhưng còn nhà tôi thì sao…?” anh hỏi với giọng ai oán.

Ford nhìn sang ông Prosser, và bỗng nhiên một ý nghĩ ma mãnh nảy ra trong đầu gã.

“Ông ta muốn đập nhà anh à?”

“Ừ, ông ta muốn xây…”

“Và ông ấy không thể vì anh đang nằm trước xe ủi?”

“Ừ, và…”

“Tôi chắc chúng ta có thể đi đến một thỏa thuận,” Ford nói. “Này, xin lỗi!” gã la lên.

Ông Prosser (lúc này đang cãi nhau với một người đại diện đám tài xế xe ủi về việc Arthur có phải là một mối nguy hại về mặt sức khỏe tâm lý hay không, và họ nên được trả bao nhiêu nếu anh là vậy) nhìn qua. Ông ngạc nhiên và cảm thấy có phần nguy hiểm khi thấy Arthur có bạn đồng hành.

“Vâng? Xin chào?” ông gọi lại. “Anh Dent đã tỉnh ngộ ra chưa?”

“Chúng ta có thể nào trong lúc này đây,” Ford nói, “giả định rằng anh ấy chưa tỉnh ngộ?”

“Thế thì?” ông Prosser thở dài.

“Và chúng ta có thể nào cũng giả định,” Ford nói tiếp, “anh ấy sẽ nằm lì đó cả ngày?”

“Vậy thì sao?”

“Vậy thì đám công nhân của ông sẽ nhởn nha nhởn nhơ cả ngày chẳng làm gì cả?”

“Có thể lắm, có thể lắm…”

“Thế thì, nếu các ông đã quyết đằng nào cũng làm thế, ông không thật sự cần anh ta nằm đó cả ngày đúng không?”

“Cái gì?”

“Ông không,” Ford kiên nhẫn nói, “thật sự cần anh ấy nằm đây.”

Ông Prosser ngẫm nghĩ về việc này.

“Thì, không, không thế…” ông nói, “không hẳn là cần…”

Prosser hơi lo lắng. Ông nghĩ rằng một trong hai người bọn họ không có vẻ hợp lý cho lắm.

Ford nói, “Nên nếu ông vui lòng cứ cho rằng anh ấy đang thật sự ở đây, thì tôi và anh ấy sẽ lẻn xuống quán rượu chừng nửa giờ đồng hồ. Nghe thấy thế nào?”

Ông Prosser nghĩ chuyện đó nghe thật hoàn toàn không có nghĩa lý gì.

“Nghe thấy hoàn toàn có lý lẽ…” ông nói với giọng điệu để làm yên lòng, tự hỏi mình đang cố làm yên lòng ai đây.

“Và nếu lát sau ông muốn lẻn đi làm một ly,” Ford nói, “để trả ơn chúng tôi sẽ làm thay cho ông.”

“Cảm ơn rất nhiều,” ông Prosser nói, giờ ông không còn biết phải chơi trò này thế nào, “cảm ơn rất nhiều, vâng, các anh thật tốt…” Ông nhăn mặt, rồi mỉm cười, rồi có làm cả hai vẻ mặt cùng lúc, thất bại, chộp lấy cái mũ lông của mình và lấp lửng xoay nó vòng quanh đầu mình. Ông chỉ có thể cho rằng mình vừa thắng cuộc.

“Thế thì,” Ford Prefect nói tiếp, “nếu ông không phiền đến chỗ này và nằm xuống…”

“Cái gì?” ông Prosser nói.

“À, tôi xin lỗi,” Ford nói, “có lẽ tôi đã không nói rõ ràng. Ai đó phải nằm trước chiếc xe ủi này, đúng không nào? Nếu không thì đâu có gì cản nó khỏi càn quét nhà của anh Dent, đúng không?”

“Cái gì?” ông Prosser nói lần nữa.

“Thật rất đơn giản,” Ford nói, “khách hàng của tôi, anh Dent, nói rằng anh ấy sẽ không nằm trong vũng bùn này nữa với một điều kiện duy nhất là ông đến và nằm thay anh ấy.”

“Anh đang nói gì thế?” Arthur nói, nhưng Ford lấy giày mình thúc anh một cái bảo im đi.

“Anh muốn tôi,” ông Prosser nói, giải thích rõ ràng ý tưởng mới này với chính mình, “đến đó và nằm xuống…”

“Đúng thế.”

“Trước chiếc xe ủi này?”

“Đúng thế.”

“Thay cho anh Dent.”

“Đúng thế.”

“Trong vũng bùn.”

“Trong, như ông nói đấy, vũng bùn.”

Ngay khi ông Prosser nhận ra thực chất ra rốt cuộc thì mình mới là kẻ thua, cứ như thể gánh nặng trút bỏ khỏi đôi vai ông: hoàn cảnh này giống với thế giới mà ông biết hơn. Ông thở dài.

“Đổi lại anh sẽ đưa anh Dent ra quán rượu?”

“Chính là vậy,” Ford nói, “chính xác là vậy.”

Ông Prosser bước vài bước lo lắng phía trước rồi dừng lại.

“Hứa đấy nhé?” ông nói.

“Hứa đấy,” Ford nói. Anh quay sang Arthur.

“Đi nào,” gã nói với anh, “đứng dậy để ông này nằm xuống.”

Arthur đứng lên, có cảm giác như mình đang trong một giấc mơ.

Ford vẫy tay ra hiệu cho Prosser, ông ta buồn bã, lúng túng, ngồi xuống vũng bùn. Ông có cảm giác như cả cuộc đời mình là một giấc mơ nào đó và đôi khi ông tự hỏi đây là cuộc đời của ai và người đó có đang tận hưởng nó không. Đám bùn vây quanh mông ông và cánh tay ông rồi chúng rỉ vào giày ông.

Ford nhìn ông nghiêm nghị.

“Và không được lén lút đập nát nhà anh Dent khi anh ấy đi vắng, nhớ nhé?” gã nói.

“Dù chỉ là ý nghĩ,” ông Prosser gầm lên, “cũng chưa bắt đầu hình thành,” ông nói tiếp, ngồi dựa lại phía sau, “dù chỉ là một khả năng nhỏ bé nhất cũng chưa nảy ra trong tâm trí tôi.”

Ông nhìn thấy người đại diện đám công đoàn tài xế xe ủi đang tiến gần đến và ông thả đầu mình chìm xuống rồi nhắm mắt lại. Ông đang cố sắp xếp trình tự các lý lẽ để chứng mình rằng chính bản thân mình không phải là một mối nguy hại về mặt sức khỏe tâm lý. Ông hoàn toàn không hề chắc chắn về việc này – đầu óc ông dường như ngập lụt những âm thanh, những con ngựa, khói bụi và mùi hôi tanh của máu. Chuyện này lúc nào cũng xảy ra khi ông thấy đau khổ hay khi bị đối xử tệ bạc, và ông chưa bao giờ có thể tự giải thích với mình về việc này. Trong một không gian cao vời nào đó mà chúng ta không biết gì về nó, Thành Cát Tư Hãn vĩ đại đang gầm rống trong cơn giận dữ, nhưng ông Prosser chỉ hơi run rẩy và khóc thút thít. Ông bắt đầu cảm nhận được những mũi châm chích nho nhỏ của nước sau mi mắt mình. Đám quan liêu gàn dỡ, mấy người dân giận dữ nằm trong bùn, những người xa lạ không thể hiểu nổi chìa ra mấy lời nhục mạ không thể giải thích được và một đám kỵ sĩ không rõ gốc gác đang cười ông trong tâm trí ông – một ngày gì đâu.

Một ngày gì đâu. Ford Prefect biết bây giờ dù nhà Arthur có bị đập nát hay không thì cũng chẳng chết thằng Tây nào.

Arthur vẫn rất lo lắng.

“Chúng ta có thể tin tưởng ông ấy không?” anh nói.

“Tôi thì tôi tin ông ấy cho đến tận cùng của thế giới,” Ford nói.

“Ồ, thế à,” Arthur nói, “và đó là khi nào chứ?”

“Chừng mười hai phút nữa thồi,” Ford nói, “đi nào, tôi cần uống một ly.”

 

« »
%d bloggers like this: