MỘT VỊ ANH HÙNG MỚI ĐƯỢC RA ĐỜI

Ngày 6 tháng 10 năm 2015

Một bộ sách mới dựa trên Thần thoại Bắc Âu

Magnus Chase trước giờ vẫn là một đứa trẻ rắc rối. Kể từ cái chết bí ẩn của mẹ, cậu sống một mình trên những con đường của thành phố Boston, nhờ vào sự thông mình của mình và luôn đi trước cảnh sát và giám thị một bước.

Một ngày kia, cậu bị một người đàn ông mình chưa từng gặp, người mà mẹ cậu cho là nguy hiểm, bắt được. Ông ta nói cho cậu nghe một bí mật không tưởng: Magnus là con trai của một vị thần Bắc Âu.

Những huyền thoại Viking đều thật cả. Các vị thần Asgard đang chuẩn bị cho một cuộc chiến. Đám quỷ lùn (troll), bọn khổng lồ (giant) và những con yêu quái kinh khủng hơn thế đang náo loạn chờ ngày Ragnarok – ngày tận thế. Để ngăn ngừa chuyện này, Magnus phải tìm kiếm một vũ khí đã bị thất lạc cả mấy nghìn năm trong Cửu Giới (Nine Worlds).

Khi một cuộc tấn công của bọn khổng lồ lửa ép cậu phải lựa chọn giữa an toàn của chính mình và hàng trăm sinh mạng vô tội, Magnus đã đi đến một quyết định chết người.

Đôi khi, cách duy nhất để bắt đầu một cuộc sống mới là chết…

***

Trích đoạn:

Thanh Kiếm Của Mùa Hè

 

Chương 1

Chào buổi sáng! Bạn sắp sửa đi đời.

 

Vâng, tôi biết. Các bạn sắp sửa đọc chuyện tôi chết trong đau khổ thế nào, và bạn sẽ phản ứng kiểu như, “Wow! Nghe thật bảnh, Magnus! Mình có thể chết trong đau khổ được không?”

Không. Không thế thôi.

Đừng có mà đi nhảy xuống từ mái nhà nào đấy. Đừng có mà chạy ra xa lộ hoặc tự thiêu mình. Làm thế chẳng được đâu. Bạn sẽ không có kết cục như tôi đâu.

Ngoài ra, bạn cũng sẽ không muốn phải xử lý hoàn cảnh của tôi. Trừ khi bạn có vài khao khát điên khùng nào đó muốn được thấy những chiến binh không chết chém nhau thành trăm mảnh, những thanh kiếm bay vù vào lỗ mũi bọn khổng lồ, và những con elf ăn vận sành điệu, bạn đừng có mà nghĩ đến việc tìm kiếm những cánh cổng đầu sói.

Tên tôi là Magnus Chase. Tôi mười sáu tuổi. Đây là câu chuyện về cuộc đời xuống dốc của tôi sau khi tôi để mình bị giết.

***

Ngày hôm ấy bắt đầu cũng như mọi ngày. Tôi đang ngủ bên vỉa hè dưới một cây cầu trong Vườn Công Cộng thì có một gã đá tôi thức và nói, “Bọn họ đang theo bắt cậu.”

Nhân tiện nói luôn, tôi đã là kẻ vô gia cư suốt hai năm vừa qua.

Vài người có lẽ nghĩ, Ôi, buồn làm sao. Số khác sẽ nghĩ, Ha ha, đồ dở hơi! Nhưng nếu bạn thấy tôi trên đường, chín mươi chín phần trăm là bạn sẽ đi tuốt luốt như thể tôi vô hình. Bạn sẽ nguyện cầu, Xin đừng để thằng nhóc đó xin tiền con. Bạn sẽ tự hỏi nếu tôi già hơn vẻ ngoài của mình, vì đương nhiên một cậu nhóc thanh thiếu niên không lẽ nào lại trùm cái túi ngủ cũ mèm hôi hám và mắc kẹt ngoài đường giữa trời đông Boston. Ai đó nên giúp cậu bé tội nghiệp này đi!

Rồi bạn cứ tiếp tục đi.

Sao cũng được. Tôi không cần sự cảm thông của bạn. Tôi đã quen bị cười chê. Tôi chắc bẩm mình đã quen bị ngó lơ. Chúng ta cứ tiếp tục đi.

Tên ăn mày đánh thức tôi dậy tên Blitz. Như thường lệ, trông anh ta cứ như anh ta vừa chạy xuyên qua một cơn bão dơ dáy. Mái tóc đen bờm xờm cứng như dây điện của anh đầy giấy rác và mấy nhánh cây vụn. Gương mặt anh có màu da của yên ngựa, lốm đốm băng. Râu ria của anh quăn xoắn chỉa mọi phương hướng. Tuyết bám thành mảng dưới đuôi áo khoác ngay chỗ nó được đôi chân anh kéo lê khắp phố – Blitz cao chừng một mét sáu lăm – và đôi mắt anh nở rộng quá thể, trong tròng đen nhìn chỉ thấy toàn đồng tử. Biểu cảm hoảng hốt thường trực làm anh trông có vẻ sẽ kêu la lên bất cứ lúc nào.

Tôi chớp cho ghèn rơi khỏi mắt. Miệng tôi có vị như bánh hamburger ôi thối cả ngày trời. Túi ngủ của tôi thật ấm áp và thật tôi chẳng muốn chui ra chút nào.

“Ai theo bắt tôi?”

“Không chắc nữa,” Blitz chùi mũi mình, cái mũi của anh đã bị gãy không biết bao nhiêu lần giờ nó ngoằn ngoèo như tia chớp. “Bọn họ đang phát tờ rơi có tên và hình ảnh của cậu.”

Tôi chửi thề. Cảnh sát và bảo vệ công viên thì tôi có thể xử lý được. Giám thị, tình nguyện viên cộng đồng, đám nhóc đại học say xỉn, dân nghiện ngập tìm kiếm mấy đứa nhỏ con yếu ớt để bắt nạt – thức giấc mà gặp phải tất cả mấy thứ đó thì cũng dễ dàng như gặp được bánh rán và nước cam.

Nhưng có ai đó biết tên và mặt tôi – chuyện đó là chuyện xấu. Điều này có nghĩa là họ đang đặc biệt nhắm đến tôi. Có lẽ mấy người ở nhà tình thương nổi giận vì tôi làm hỏng cái đài phát thanh của họ. (Ôi mấy bài nhạc Giáng sinh làm tôi điên chết được.) Có lẽ một cái máy ghi hình nào đó chộp được cảnh tôi móc túi ở Khu Nhà Hát. (Này, tôi cần tiền để mua pizza.) Hoặc có lẽ, dù không thể nào, cảnh sát vẫn đang tìm kiếm tôi, muốn hỏi tôi vài câu hỏi về chuyện mẹ tôi bị giết…

Tôi đóng đồ đạc của mình, mất chừng ba giây là xong.

Túi ngủ quấn chặt lại vừa vặn trong ba lô tôi, bàn chải đánh răng, đôi vớ và đồ lót để thay. Ngoại trừ mớ quần áo trên lưng, đó là tất cả những gì tôi sở hữu. Đeo ba lô lên vai và kéo mũ áo qua đầu che xuống, tôi có thể hòa nhập vào dòng người đi bộ dễ dàng. Boston đầy rẫy đám nhóc đại học. Vài đứa trông còn luộm thuộm và nhìn mặt trẻ hơn nữa.

Tôi quay sang Blitz. “Anh thấy mấy người phát tờ rơi này ở đâu?”

“Đường Beacon. Họ đang đi về hướng này. Một lão da trắng đứng tuổi và một cô bé teen, chắc con gái ông ta.”

Tôi nhăn mặt. “Thật chẳng hiểu nổi. Ai…”

“Tôi không biết đâu nhóc, nhưng tôi phải đi đâu.” Blitz nheo mắt về hướng mặt trời đang mọc, ánh sáng của nó làm cho những khung cửa sổ của các tòa nhà chọc trời biến thành màu cam. Blitz ghét ánh sáng ban ngày vì lý do nào đó mà tôi không thể hiểu được. Có lẽ anh ta là tên ma cà rồng vô gia cư lùn nhất, bè bè chắc mập nhất thế giới. “Cậu nên đi gặp Hearth. Ông ấy lảng vảng ở Quảng trường Copley ấy.”

Tôi cố để không cảm thấy khó chịu. Dân đường phố khu này gọi đùa Hearth và Blitz là bố mẹ tôi vì thường một trong hai người họ hay lởn vởn quanh tôi.

“Cảm ơn nhé,” tôi nói. “Tôi sẽ không sao đâu.”

Blitz cắn móng tay cái của mình. “Không biết à nhóc. Không phải hôm nay. Cậu phải cẩn thận hơn nhiều.”

“Tại sao?”

Anh liếc nhìn qua vai tôi. “Họ đến kìa.”

Tôi không thấy ai cả. Khi tôi quay đầu lại, Blitz đã biến mất tiêu.

Tôi ghét khi anh ấy làm vậy. Chỉ – úm ba la. Anh chàng cứ như một tên ninja vậy. Một tên ma cà rồng ninja vô gia cư.

Giờ tôi có một sự chọn lựa:  đến Quảng trường Copley để lai vãng với Hearth, hoặc đi về hướng Đường Beacon và cố tìm ra người đàn ông da trắng đứng tuổi và cô bé teen đang lùng sục tôi lúc bình mình của một buổi sáng lạnh cóng. Tại sao? Họ là ai?

Tôi men theo bờ hồ. Hầu như chẳng ai đi con đường mòn dưới cầu. Tôi có thể đi vòng bên hông đồi và nhận ra được bất kỳ ai đang đi đến ở lối đi bên trên mà họ lại không thể thấy tôi.

Tuyết phủ mặt đất. Bầu trời xanh đến đau cả mắt. Những nhánh cây trơ trụi trông như chúng vừa bị nhúng vào thủy tinh. Gió cắt xuyên qua lớp quần áo của tôi, nhưng tôi chẳng e ngại cái lạnh. Mẹ thường đùa rằng một nửa con người tôi là gấu bắc cực.

Khốn kiếp, Magnus à, tôi quở trách chính mình.

Sau hai năm, ký ức về mẹ của tôi vẫn là một bãi mìn. Tôi loạng choạng đi qua một trái, thế là mọi sự điềm tĩnh của tôi bị nổ tung thành trăm mảnh.

Tôi cố tập trung.

Người đàn ông và cô gái đang đi về hướng này. Mái tóc màu cát vàng mọc quá cổ áo ông – chẳng phải một phong cách có cố ý, nhưng giống như ông chẳng màng cắt nó vậy. Biệu hiện lạc hướng của ông làm tôi nghĩ đến biểu hiện của một giáo viên dạy thế: Tôi biết tôi bị đạn trong cái ống hút bắn trúng, nhưng tôi không biết nó bay từ đâu ra. Giày chưng diện của ông ta hoàn toàn không hợp với mùa đông Boston. Vớ ông có nhiều sắc màu nâu khác nhau. Cà vạt ông trông như nó được cột trong lúc ông xoay người vòng vòng trong bóng tối.

Cô bé rõ ràng là con của ông ta. Tóc cô dày và quăn vợn sóng, nhưng có màu vàng hơi nhạt hơn. Cô ăn mặc hợp lý hơn với bốt đi tuyết, quần jean và áo lạnh parka, với một chiếc áo thun màu cam nhú ra ở phần cổ. Biểu cảm của cô kiên quyết hơn, giận dữ. Cô nắm chặt một mớ tờ rơi như thể nó là mấy bài văn cô bị cho điểm kém một cách không công bằng.

Nếu cô đang kiếm tôi, tôi không muốn bị tìm thấy. Cô thật đáng sợ.

Tôi không nhận ra cô và cả bố cô nữa, nhưng có gì đó kéo mạnh đằng sau đầu tôi… như thể có một cái nam châm đang cố hút ra những ký ức cũ kỹ.

Bố và con gái dừng chân nơi có một ngã rẽ trên đường. Họ nhìn quanh quất như thể vừa mới nhận ra mình đang đứng giữa một công viên không một bóng ma vào cái giờ giấc không-cảm-ơn ngay giữa mùa đông lạnh giá.

“Thật không thể tin nổi,” cô gái nói. “Con muốn bóp cổ cái tên ấy.”

Cho là cô ấy đang nói đến mình, tôi ngồi xổm thấp hơn chút nữa.

Bố cô  thở dài. “Chúng ta có lẽ nên tránh việc giết chết ông ta. Ông ta cậu của con.”

“Nhưng hai năm?” cô gái hỏi gặng. “Bố, làm thế nào mà ông ta không nói cho chúng ta biết suốt hai năm.”

“Bố không thể giải thích hành động của Randolph. Bố chưa bao giờ có thể, Annabeth à.”

Tôi hít thở mạnh, tôi sợ họ sẽ nghe thấy mình. Một cái mài bị xé toạc khỏi não tôi, để lộ ra những ký ức trần trụi từ lúc tôi mới sáu tuổi.

Annabeth. Vậy có nghĩa là người đàn ông tóc vàng cát là… cậu Frederick?

Tôi nhớ lại lễ Tạ ơn cuối cùng chúng tôi cùng đón với nhau: Annabeth và tôi trốn trong thư viện ở nhà sát vách của cậu Randolph, chơi domino trong khi những người lớn la hét nhau ầm ĩ dưới lầu.

Em may mắn là em sống với mẹ đó. Annabeth chất một con domino lên tòa nhà thu nhỏ của mình. Nó đẹp đến kinh ngạc, các cột nhà ở phía trước trông như một thánh đường. Chị sẽ bỏ trốn đi.

Tôi không nghi ngờ ý định của chị ấy chút nào. Tôi ngưỡng mộ sự tự tin của chị.

Rồi cậu Frederick xuất hiện ngoài cửa. Nắm tay cậu ấy siết chặt. Nết mặt dữ tợn của cậu chả ăn nhập gì với con tuần lộc đang cười toe toét trên áo len cậu đang mặc. Annabeth, chúng ta đi thôi.

Annabeth nhìn tôi. Đôi mắt xám của chị có chút hung tợn cho một đứa trẻ lớp một. Bình an nhé, Magnus.

Búng tay một cái, chị ấy gõ sập tòa thánh đường bằng domino của mình.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chị ấy.

Sau đó, mẹ tôi khăng khăng: Chúng ta tránh xa mấy ông cậu của con. Nhất là Randolph. Mẹ sẽ không cho cậu ta thứ cậu muốn đâu. Không bao giờ.

Mẹ không chịu giải thích cậu Randolph muốn gì, hoặc chuyện mẹ và cậu Frederick và cậu Randolph cãi nhau là chuyện gì.

Con phải tin mẹ, Magnus. Ở gần bọn họ… rất nguy hiểm.

Tôi đã tin mẹ mình. Ngay cả sau khi mẹ qua đời, tôi vẫn chưa liên lạc với những người họ hàng của mình.

Randolph sống trong thành phố, nhưng theo như tôi được biết, cậu Federick và Annabeth vẫn còn sống ở Virginia. Nhưng bây giờ họ ở đây, phát tờ rơi có tên và hình ảnh của tôi. Họ lấy đâu ra hình của tôi?

Đầu óc tôi quay mòng mòng đến thảm hại, tôi lỡ mất vài cuộc trò chuyện của họ.

“… để kiếm Magnus,” cậu Federick đang nói. Cậu kiểm tra điện thoại smartphone của mình. “Randolph ở nhà tình thương của thành phố ở khu South End. Cậu nói chẳng có chút may mắn nào trong việc tìm kiếm. Chúng ta nên thử đến nhà tình thương thiếu niên phía bên kia công viên.”

“Làm sao chúng ta có thể biết Magnus vẫn còn sống?” Annabeth hỏi trong đau khổ. “Mất tích hai năm? Em ấy có thể đã lạnh cóng trong một cái rãnh đâu đó rồi!”

Mặc dù đã mười năm kể từ lần cuối cùng tôi gặp chị, tôi không thích thấy lo âu khốn khổ. Nhưng sau một thời gian dài sống ngoài đường phố, tôi đã học được một bài học: bạn không bao giờ tham gia vào một tình huống nào cho đến khi bạn hiểu chuyện gì đang xảy ra.

“Randolph chắc chắn,” cậu Federick nói. “Rằng Magnus còn sống. Nó ở đâu đây trong Boston này. Nếu mạng sống của nó thật sự đang gặp nguy hiểm…”

Họ bước đi về hướng Đường Charles, giọng họ vang vẳng theo làn gió.

Giờ tôi đang run đây,  nhưng không phải vì lạnh. Tôi muốn chạy theo cậu Federick, đốn ngã cậu, và hỏi cho ra chuyện gì đang xảy ra. Làm sao mà cậu Randolph biết tôi vẫn còn ở trong thành phố? Vì sao họ tìm kiếm tôi? Vì sao ngày hôm nay mạng tôi gặp nguy hiểm hơn tất cả những ngày khác?

Nhưng tôi đã không đi theo họ.

Tôi nhớ điều cuối cùng mẹ đã nói với tôi. Tôi đã miễn cưỡng dùng thang thoát hiểm, miễn cưỡng bỏ mẹ lại, nhưng mẹ giữ chặt tay tôi và bắt tôi nhìn thẳng mẹ. Magnus, chạy đi. Trốn đi. Đừng tin ai cả. Mẹ sẽ tìm con. Dù con làm gì đi nữa, đừng tìm Randolph để cầu cứu.

Rồi trước khi tôi kịp trèo ra khỏi cửa sổ, cánh cửa căn hộ của chúng tôi nổ tung thành gỗ vụn. Hai đôi mắt xanh rực sáng hiện ra từ trong bóng tối…

Tôi rũ bỏ ký ức và nhìn cậu Federick và Annabeth bỏ đi, men theo hướng đông về Khu Tập Thể.

Cậu Randolph… vì lý do nào đó, đã liên lạc với cậu Federick và Annabeth. Cậu đã khiến họ đến Boston. Mãi đến nay, cậu Federick và Annabeth không hề biết rằng mẹ tôi đã qua đời còn tôi thì mất tích. Dường như chẳng thể nào, nhưng nếu là thật thì, tại sao bây giờ cậu Randolph mới nói cho họ biết?

Tôi nghĩ chỉ có một cách duy nhất để có được câu trả lời mà không phải trực tiếp đối mặt với cậu ấy. Nhà cậu ở ngay Vịnh Back, một đoạn đường có thể đi bộ đến dễ dàng. Theo lời cậu Federick thì cậu Randolph không có nhà. Cậu ấy đang đâu đó dưới khu South End để tìm kiếm tôi.

Tôi quyết định đi thăm chỗ cậu ấy, vì chẳng có cách bắt đầu ngày mới nào tuyệt hơn là phá khóa và đột nhập vào nhà người khác một chút.


Đọc thử chương 2, chương 3

Photo Credit: UK Book stock photo
Người dịch: conruoinho