Người Sao Hỏa

Tác giả: Andy Weir
Người dịch: conruoinho

Thể loại: Khoa học viễn tưởng (scifi)

Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.
Truyện dịch từ bản Advance Read nên có thể không giống hoàn toàn với bản xuất bản.

martianedit_464

Mục Lục

1 – 2 3 456 – 789101112 – 13 1415161718 – 1920 212223242526


(15)

Dự án Iris
[08:12] WATNEY: Test.

[08:25] JPL: Đã nhận được! Anh làm chúng tôi sợ chết được. Cảm ơn đã gửi tin nhắn “A-OK” nhé. Phân tích từ những hình ảnh vệ tinh của chúng tôi cho thấy sự tách rời hoàn toàn của cửa Airlock 1. Có đúng thế không? Tình trạng của anh thế nào? Bao gồm tình trạng sức khỏe của anh và tất cả cách thiết bị trong căn Hab.

[08:39] WATNEY: Nếu ý anh nói “sự tách rời” tức là “bị bắn cái vèo như viên đại bác” thì vâng, đúng thế. Vài vết cắt nho nhỏ trên trán tôi. Vài vấn đề với bộ áo EVA (tôi sẽ giải thích sau). Tôi dán căn Hab và điều hòa áp suất trở lại (thùng khí chính vẫn còn nguyên vẹn). Tôi vừa sửa cho có điện trở lại. Thùng chứa khí và nước chính vẫn không sao. Con rover, dàn pin mặt trời và Pathfinder đều nằm ngoài vùng nổ. Tôi sẽ chạy chẩn đoán cho các hệ thống của căn Hab trong khi chờ đợi câu trả lời của bên anh. Nhân tiện, tôi đang nói chuyện với ai đây?

[08:52] JPL: Venkat Kapoor từ Houston đây. Pasadena chuyển tin nhắn cho tôi. Kể từ bây giờ tôi sẽ đảm nhiệm mọi liên lạc trực tiếp với anh. Kiểm tra máy lọc ôxy và máy lọc nước trước. Chúng là thứ quan trọng nhất.

[09:05] WATNEY: Giời, đương nhiên. Máy lọc ôxy hoạt động hoàn hảo. Máy lọc nước hoàn toàn offline. Dự đoán gần nhất của tôi là nước đông lạnh lại bên trong và làm vỡ vài ống dẫn. Tôi chắc rằng mình có thể sửa nó. Máy tính chính của căn Hab vẫn hoạt động không vấn đề gì. Có sáng ý nào về lý do căn Hab nổ tung không?

[09:18] JPL: Dự đoán gần nhất của chúng tôi là vải bạt cửa Airlock 1 không còn chịu đựng được. Chu kỳ điều hòa áp suất đã giãn nó đến độ nó bị hư. Từ đây trở đi, dùng luân phiên cửa Airlock 2 và 3 cho tất cả những chuyến EVA. Ngoài ra, chúng tôi sẽ gửi cho anh một danh sách kiểm và phương pháp để kiểm tra vải bạt toàn diện.

[09:31] WATNEY: Yay, tôi sẽ được nhìn ngắm bức tường cả vài giờ đồng hồ! Nhân tiện nói luôn này, nông trại đã chết hết. Tôi cứu lại hết những củ tôi có thể và trữ chúng bên ngoài. Tôi đếm được 1841. Nó sẽ giúp tôi sống thêm 184 ngày. Bao gồm cả khẩu phần từ thức ăn của phi vụ, tôi sẽ bắt đầu chết đói vào Sol 584.

[09:44] JPL: Vâng, chúng tôi đã tính ra. Đang tìm cách đây.

 

***

“Đã là Sol 122 rồi,” Bruce nói. “Chúng ta có đến Sol 584 để đưa một con tàu lên sao Hỏa. Đó là 462 sol, tức 475 ngày.”

Những vị bộ trưởng JPL đang hội họp ở đó liền chau mày và dụi mắt.

“Trước kia họ cần tàu chở đồ dự trữ đi sớm hơm kế hoạch,” Bruce nói tiếp. “Giờ họ cần nó sớm hơn kế hoạch nhiều thật nhiều.

Ông đứng lên từ ghế của mình. “Vị trí của Trái Đất và sao Hỏa không lý tưởng lắm. Chuyến đi sẽ mất 414 ngày. Gắn tàu lên máy tăng thế và giải quyết hết những vụ kiểm tra sẽ mất 13 ngày. Vậy chúng ta còn 48 ngày để làm con tàu này.”

Những tiếng thì thầm của sự giận dữ lan tỏa khắp căn phòng. “Chúa ơi,” ai đó nói.

“Đây là một cuộc chơi hoàn toàn mới,” Bruce nói tiếp. “Mục tiêu của chúng ta là thức ăn. Bất cứ thứ gì khác đều là xa xỉ cả. Chúng ta không có thời gian làm một máy hạ cánh có động cơ được. Đó sẽ phải là một cú nhào lộn thôi. Nên chúng ta không thể để bất cứ thứ mỏng manh nào bên trong. Nói tạm biệt với tất cả mấy thứ ba linh tinh chúng ta đã định gửi đi nhé.”
“Máy tăng thế ở đâu mà ra?” Norm Toshi – người đảm nhiệm quá trình trở về khí quyển – cất tiếng hỏi.

“Từ tàu do thám sao Thổ EagleEye 3,” Bruce nói. “Nó đã được lên kế hoạch phóng vào tháng tới. NASA hoãn nó lại để chúng ta có thể tẩng máy tăng thế ấy.”

“Tôi cá là đội EagleEye 3 đã rất cáu tiết vì chuyện đó,” Norm nói.

“Tôi chắc là thế,” Bruce nói. “Nhưng đó là máy tăng thế duy nhất đủ lớn mà chúng ta có. Điều này đưa tôi đến điểm tiếp theo tôi muốn nói: Chúng ta chỉ có một cơ hội duy nhất. Nếu chúng ta làm hư vụ này, Mark Watney sẽ chết.”

Ông nhìn một vòng quanh phòng và để cho điều đó thấm vào tâm trí mọi người.

“Chúng ta cũng có vài thuận lợi,” cuối cùng ông cũng cất tiếng. “Chúng ta có vài bộ phận đã làm xong cho phi vụ chuyển đồ dự trữ đến Ares 4. Chúng ta có thể chôm từ bọn họ, và điều đó sẽ tiết kiệm được chút đỉnh thời gian. Ngoài ra, chúng ra gửi thức ăn, thứ ấy khá chắc chắn. Ngay cả khi gặp phải vấn đề lúc vào lại khí quyển và con tàu va chạm ở vận tốc cao, thức ăn vẫn còn là thức ăn thôi.

“Và chúng ta không cần phải hạ cánh chính xác. Watney có thể di chuyển hàng trăm cây số nếu cần thiết. Chúng ta chỉ cần hạ cánh ở vị trí đủ gần để anh ấy đến được. Tính ra đây lại trở thành một cú hạ cánh lộn vòng để gửi đồ. Chúng ta chỉ có việc là phải làm nhanh tay nhanh chân thôi. Cho nên bắt đầu đi nào.”

***

[08:02] JPL: Chúng tôi đã lập ra một dự án phụ để đem lương thực lên cho anh. Nó đã được tiến hành chừng cả tuần nay rồi. Chúng tôi có thể đem nó lên đó trước khi anh bắt đầu chết đói, nhưng cũng sẽ chật vật lắm đây. Chỉ có lương thực và radio thôi. Chúng tôi không thể gửi máy lọc ôxy, máy lọc nước hoặc bất cứ thứ gì khi không có máy hạ cánh có động cơ.

[08:16] WATNEY: Tôi không có gì để phàn nàn cả! Các anh gửi được thức ăn lên đây là tôi vui rồi. Tôi đã mở lại được tất cả các hệ thống trên căn Hab và chúng chạy lại rồi. Máy lọc nước giờ hoạt động bình thường và tôi đã thay thế cái vòi bị vỡ rồi. Về vấn đề nước trữ, tôi còn đến 620 lít. Tôi bắt đầu với 900 lít (300 vốn có sẵn, 600 khử từ hydrazine). Và tôi mất gần 300 thăng hoa. Tuy nhiên, với máy lọc hoạt động trở lại, sẽ có nhiều thôi.

[08:31] JPL: Tốt, nhớ cập nhật cho chúng tôi thông tin về bất cứ vấn đề cơ khí và điện tử nào. Nhân tiện nói luôn, con tàu chúng tôi gửi có tên là “Iris”. Đặt theo tên của nữ thần Hy Lạp đi lại trên thiên đường với tốc độ của gió đấy. Bà ta cũng là nữ thần của cầu vòng.

[08:47] WATNEY: Tàu đồng tính đang đến để cứu tôi. Đã rõ rồi.

 

***

Rich Purnell nhâm nhi cà phê trong tòa nhà yên tĩnh. Chỉ mỗi góc văn phòng của anh lóe sáng trong gian phòng tối tăm. Anh tiếp tục với những tính toán của mình, chạy một lượt kiểm tra cuối cùng cho phần mềm chính anh viết. Nó đạt chuẩn.

Anh thở phào nhè nhỏm, ngồi sụn xuống chiếc ghế của mình. Anh kiểm tra đồng hồ trên máy tính, rồi lắc đầu. 3h42 sáng.

Vốn là một nhà động lực vũ trụ học, Rich hiếm khi phải làm việc trễ. Công việc của anh là tìm kiếm quỹ đạo chính xác và sửa chữa hướng đi khi cần thiết cho phi vụ được giao. Thường thì, đó là một trong những phần đầu tiên của một dự án; tất cả những bước còn lại đều dựa vào quỹ đạo.

Nhưng lần này, mọi chuyện đều đảo ngược. Iris cần một đường vòng quỹ đạo, và chẳng ai biết nó sẽ được phóng khi nào.

Các hành tinh di chuyển theo thời gian. Một đường đi tính cho một ngày phóng nhất định chỉ có thể được dùng vào đúng ngày đó. Dù khác một ngày thôi cũng sẽ dẫn đến chuyện lỡ sao Hỏa hoàn toàn.

Thế nên Rich phải tính nhiều đường đi. Anh có một phạm vi tính toán trong vòng 25 ngày bất kì mà Iris có thể được phóng. Anh tính từng đường đi cho mỗi ngày.

Anh bắt đầu email sếp của mình.

Mike, anh đánh máy, Đính kèm là đường đi của Iris, tính từng ngày một. Chúng ta nên bắt đầu bình duyệt và kiểm định lại để chúng có thể được chấp nhật một cách hợp lệ. Và anh đã đúng rồi đấy, tôi ở đây gần như cả đêm.

Cũng chẳng đến nỗi nào. Không đau đớn bằng lúc tính toán quỹ đạo cho Hermes đâu. Tôi biết anh sẽ chán ngấy nếu tôi đi sâu vào ba mấy phép toán, nên tôi tóm tắt đây: Cái bộ phận phản lực nhỏ ổn định của máy chạy ion trên Hermes thì khó xử lý hơn là cái bộ phận phản lực to chỉ hướng của tàu gửi đồ dự trữ.

Tất cả 25 đường đi đều mất 414 ngày, và chỉ khơi khác nhau độ dài và góc độ đẩy lực mà thôi. Yêu cầu cho nhiên liệu gần như y chang nhau cho tất cả các quỹ đạo và nó hoàn toàn trong khả năng của máy tăng thế EagleEye.

Thật không may. Trái Đất và Sao Hỏa đang nằm trong những vị trí không tốt. Khỉ thật, hình như còn dễ hơn nếu…

Anh ngừng đánh máy.

Anh nhíu đôi mày, rồi đăm đăm nhìn về hướng xa xôi.

“Hừm.” Anh nói.

Anh chộp lấy ly cà phê của mình rồi đi về phòng giải lao để rót thêm.

***

“Tôi biết các anh đều rất bận,” Teddy nói, “nên chúng ta hãy làm việc này cho lẹ lên. Tôi cần cập nhật tình trạng của Dự án Iris từ tất cả các bộ phận. Venkat, anh bắt đầu trước đi.”

“Đội phi hành đã sẵn sàng,” Venkat nói. “Có vài xích mích nhỏ giữa đội điều khiển Ares 3 và đội phụ trách gửi đồ Ares 4. Bên Ares 3 thì nói họ nên chạy dự án này, vì trong khi Watney vẫn còn ở sao Hỏa thì Ares 3 vẫn đang hoạt động. Đội Ares 4 thì bảo đó vốn dĩ là tàu của họ. Rốt cuộc tôi chọn nghe theo bên Ares 3.”

“Vậy chuyện đó có làm Ares 4 bực bội không?” Teddy hỏi.

“Đương nhiên rồi, nhưng họ sẽ hết giận thôi. Họ có 13 chuyến gửi đồ dự trữ sắp phải làm. Họ sẽ không có thời gian mà bực nữa đâu.”

“Mitch,”Teddy nói với người quản lý chuyến bay, “Vụ phóng đến đâu rồi?”
“Chúng tôi đã có phòng điều hành chuẩn bị sẵn sàng,” Mitch đáp. “Tôi sẽ giám sát việc phóng tày, còn nhân viên bên Venkat thì đảm nhiệm vụ điều khiển tay lái và hạ cánh.”

“Truyền thông?” Teddy quay sang Annie Montrose hỏi.

“Mỗi ngày tôi đều cập nhật cho báo chí,” cô nói. “Ai cũng biết Watney chết chắc nếu việc này kkho6ng thành công. Công chúng chưa từng quan tâm đến vụ xây tàu nào đến mức này kể từ Apollo 11. ‘Báo cáo Watney’ của CNN đã là chương trình số 1 trong giờ công chiếu của nó suốt hai tuần nay.”

“Sự lưu tâm đó rất tốt,” Teddy nói. “Nó sẽ giúp chúng ta xin được quỹ khẩn cấp từ Quốc hội. Maurice, máy tăng thế sao rồi?”

“Giờ thì nó tạm ổn,” Maurice Stein – Giám đốc Hoạt động của Bệ Phóng. “Nhưng nó chưa hoàn hảo lắm. Eagle Eye 3 đã sắp phóng. Mấy máy tăng thế đó chẳng phải được thiếc kế để đứng thẳng và chịu đựng áp lực từ trọng lượng trong thời gian quá lâu. Chúng to thêm vào những thứ  hỗ trợ bên ngoài mà chúng tôi sẽ phải tháo rời trước khi phóng. Vậy thì dễ dàng hơn là lắp ráp chúng rồi tháo ra. Ngoài ra nhiên liệu có tính gặm mòn các thùng chứa bên trong, nên chúng tôi cho nó thoát cạn ra ngoài hết. Trong thời gian chờ đợi, chúng tôi đang tiến hành kiểm tra mọi hệ thống định kỳ ba ngày một lần.”

“Tốt, tốt,” Teddy gật gù. “Giờ thì đến câu hỏi quan trọng đây: Bruce? Iris đến đâu rồi?”

“Chúng tôi đang bị trễ,” Bruce vừa lắc đầu mệt mỏi vừa nói. “Chúng tôi làm nhanh hết khả năng của mình, nhưng thế cũng chưa đủ nhanh.”

“Tôi có thể kiếm thêm tiền để trả giờ làm thêm,” Teddy mở lời đề nghị.

“Chúng tôi đã làm suốt ngày đêm không ngơi nghỉ rồi.”

“Chúng ta đang bị trễ đến đâu rồi?” Teddy hỏi.

“Chúng tôi đã làm đến 29 ngày rồi; nên chỉ còn 19 ngày,” Bruce giải thích. “Sau đó, Bệ phóng cần thêm 13 ngày để gắn máy tăng thế vào. Ít nhất là chúng tôi đang trễ hai tuần.”

“Bọn anh sẽ trễ bao nhiêu đó thôi?” Teddy hỏi. “Hay là bọn anh sẽ còn trễ thêm nữa.”

Bruce nhún vai. “Nếu chúng tôi không gặp vấn đề gì, thì chỉ trễ hai tuần thôi. Nhưng chúng tôi gặp trục trặc.”

“Đưa tôi một con số,” Teddy nói.

“15 ngày,” Bruce đáp. Nếu tôi có 15 ngày, tôi chắc chắn nhóm tôi sẽ làm xong kịp lúc.”

“Được rồi,” Teddy nói. “Chúng ta hãy kiếm thêm 15 ngày.”

Teddy chuyển sự chú ý của mình sang vị quân y phi vụ bay Ares 3 và hỏi. “Bác sĩ Keller, chúng ta có thể giảm khẩu phần ăn của Watney để anh ta sống lâu hơn nữa được không?”

“Xin lỗi, chúng ta không thể,” Keller nói. “Anh ấy đã ở mức calorie tối thiểu rồi. Thật ra, tính thêm lượng lao động anh ta phải làm, anh ta đã ăn ít hơn mức cần thiết rồi. Và điều này chỉ ngày càng tệ hơn thôi. Không sớm thì muộn cả khẩu phần ăn của anh ta chỉ còn khoai tây và thuốc vitamin bổ sung. Anh ta đã giảm bớt lượng chất đạm từ khẩu phần để dùng sau rồi, nhưng anh ta vẫn sẽ bị suy dinh dưỡng.”

“Khi anh ta hết đồ ăn, anh ta sẽ đói trong vòng bao lâu rồi mới chết?” Teddy hỏi.

“Cho rằng anh ta còn nhiều nước để dùng, thì anh ta có thể sống thêm ba tuần nữa. Ngắn hơn thời gian chết đói thông thường nhưng anh nên nhớ là khi ấy anh ta đã suy dinh dưỡng sẵn rồi.”

“Còn nhớ điều này nữa,” Venkat nhảy vào, “Iris là một hệ thống nhào lộn; anh ta sẽ phải lái xe vài ngày để đón nhận nó. Và tôi đoán là khi thật sự đang chết đói thì chẳng dễ dàng điều khiển xe rover đâu.”

“Anh nói đúng,” Bác sĩ Keller xác nhận. “Trong vòng 4 ngày sau khi hết sạch lương thực, anh ta sẽ khó mà tự đứng lên nổi chứ đừng nói gì đến chuyện điều khiển rover. Ngoài ra, năng lực trí tuệ của anh ta sẽ giảm sút nhanh chóng. Anh ta sẽ gặp khó khăn ngay cả trong chuyện cố gắng thức tỉnh.”

“Vậy thì ngày hạ cánh không thể di dời rồi,” Teddy nói. “Maurice, anh có thể lắp nó vào máy tăng thế trong vòng ít hơn 13 ngày không?”

Maurice suy nghĩ. “À thì… Thật ra chỉ mất 3 ngày để gắn thôi. 10 ngày còn lại là để thử nghiệm và kiểm định.”

“Anh có thể giảm thời lượng đó xuống còn bao nhiêu?”

“Nếu có đủ thời gian làm thêm, tôi có thể giảm thời gian gắn máy xuống còn 2 ngày. Đó là bao gồm thời gian vận chuyển từ Pasadena xuống Cape Canaveral. Nhưng thời gian kiểm tra không thể rút ngắn lại. Vì nó phụ thuộc vào thời gian. Chúng tôi vài kiểm tra rồi kiểm tra lại với những chốt thời gian nhất định ở giữa để xem có gì biến dạng hoặc cong oằn hay không. Nếu anh giảm lượng thời gian nhất định đó thì việc kiểm định sẽ bị mất hiệu lực.”

“Những kiểm định này có thường phát hiện ra vấn đề hay không?” Teddy hỏi.

Cả căn phòng rơi vào trong im lặng.

“Ơ,” Maurice lắp bắp. “Anh đang đề nghị chúng tôi đừng làm kiểm đnh5 à?”

“Không,” Teddy nói. “Ngay lúc này đây tôi chỉ đang hỏi nó có thường phát hiện ra vấn đề.”

“Xác Suất một trong hai mươi lần phóng.”

“Và thường thì vấn đề nó phát hiện ra có dẫn đến khả năng phi vụ thất bại hay không?”

“Tôi, ừm, không chắc nữa. Có lẽ xác suất là năm mươi phần trăm?”

“Vậy nếu chúng ta bỏ qua việc kiểm định và thử nghiệm, chúng ta có xác suất phi vụ thất bại là 1 trên 40?” Teddy hỏi.

“Đó là 2.5%,” Venkat xen vào nói. “Bình thường thì đó là lý do để trì hoãn vào phút cuối. Chúng ta không thể liều kiểu ấy được.”

“Bình thường đã là một chuyện xưa xửa xừa xưa rồi,” Teddy bình tĩnh nói. “97.5% thì vẫn còn hơn không. Có ai có thể nghĩ ra một cách an toàn hơn để kiếm thêm thời gian không?”

Ông nhìn quan bàn. Chỉ có những gương mặt đờ đẫn nhìn đăm đăm lại.

“Vậy thì được rồi. Tăng tốc quá trình gắn máy và bỏ qua giai đoạn kiểm định sẽ giúp chúng ta có thêm 11 ngày. Nếu Bruce có thể lập nên kỳ tích và làm mọi chuyện xong sớm hơn thì Maurice có thể làm kiểm định.”

“Vậy còn 4 ngày kia thì sao?” Venkat hỏi, ông vẫn còn nhăn nhó về chuyện bỏ việc kiểm định.

“Tôi chắc rằng Watney có thể có kéo dài thêm bốn ngày với mớ lương thực của mình, cho dù có suy dinh dưỡng đi chăng nữa,” Teddy vừa nói vừa nhìn sang Bác sĩ Keller.

“Tôi…” Keller mở miệng. “Tôi không thể đề nghị…”

“Này mọi người,” Teddy ngắt lời. “Tôi hiểu lập trường của mọi người. Chúng ta có thủ tục. Bỏ qua những thủ tục ấy có nghĩa là rủi ro. Rủi ro có nghĩa rà rắc rối với bộ phận của các anh chị. Nhưng giờ chẳng phải là lúc tự bảo vệ bản thân với mấy thủ tục ấy đâu. Chúng ta phải mạo hiểm còn không thì Mark Watney chết.”

Ông quay sang Keller và nói: “Làm cho thức ăn kéo dài được thêm 4 ngày.”

Keller im lặng gật đầu.

***

“Rich,” Mike gọi.

Rich Purnell tập trung vào màn hình của mình. Góc văn phòng của anh là một bãi rác đầy giấy in, sơ đồ, và sách tham khảo. Những cốc cà phê đã uống ạch nằm trên tất cả mọi bề mặt, túi đồ ăn mua ngoài tiệm vương vãi tứ tung trên sàn.

“Rich,” Mike nói lớn tiếng hơn.

Rich nhìn lên. “Gì cơ?”

“Anh đang làm quái gì thế này?”

“Chỉ là một dự án bên lề nho nhỏ thôi. Vài thứ tôi muốn kiểm tra chút.”

“À… được thôi, chắc vậy,” Mike nói, “nhưng anh cần làm xong việc được giao của mình trước. Tôi bảo anh làm mấy cái điều chỉnh vệ tinh ấy cách đây hai tuần và anh vẫn chưa làm xong.”

“Tôi cần chút thời gian với máy tính siêu cấp.”

“Anh cần máy tính siêu cấp để tính vài điều chỉnh vệ tinh thường ngày à?”

“Không, đó là để cho cái việc khác mà tôi đang làm,” Rich nói.

“Rich, nghiêm túc đây này. Anh phải làm công việc của mình.”

Rich suy nghĩ một hồi. “Giờ có phải là lúc thích hợp để xin nghỉ phép không?” Anh hỏi.

Mike thở dài. “Anh biết gì không, Rich? Tôi nghĩ lúc này chính là thời gian lý tưởng để anh xin nghỉ phép đó.”

“Tuyệt!” Rich mỉm cười. “Tôi bắt đầu ngay lúc này.”

“Được thôi,” Mike nói. “Về nhà đi. Về nghỉ ngơi ấy.”

“Ồ, tôi không về nhà đâu,” Rich nói rồi quay lại với những tính toán của mình.

Mike dụi dụi mắt. “Ok, sao cũng được. Về những quỹ đạo vệ tinh ấy…?”

“Tôi đang nghỉ phép,” Rich nói mà chẳng thèm nhìn lên.

Mike nhún vai rồi bỏ đi.

***

[08:01] WATNEY: Mấy túi hàng yêu thương của tôi ra sao rồi?

[08:16] JPL: Hơi trễ hơn kế họach, nhưng chúng tôi sẽ làm xong thôi. Trong thời gian này, chúng tôi muốn anh trở lại làm việc. Chúng tôi rất hài lòng rằng căn Hab vẫn trong tình trạng rất tốt. Việc bảo trì chỉ tốn của anh 12 tiếng mỗi tuần. Chúng tôi sẽ sắp xếp nghiên cứu và thí nghiệm vào phần thời gian còn lại của anh.

[08:31] WATNEY: Tuyệt! Tôi chán phải ngồi chơi xơi nước rồi. Tôi sẽ ở đây vài năm nữa. Tốt hơn thì các anh cứ dùng tôi đi.

[08:47] JPL: Đó chính là điều chúng tôi đang nghĩ đây. Chúng tôi sẽ cho anh biết thời khóa biểu của mình ngay khi đội khoa học sắp xếp xong. Đa số sẽ là mấy chuyến EVA, lấy mẩu địa chất, thử nghiệm mẩu đất, và vài kiểm tra y tế tự khám hằng tuần. Nói thật, đây là “thời gian với sao Hỏa” tốt nhất mà chúng ta có kể từ thời kỳ của máy hạ cánh Opportunity.

[09:02] WATNEY: Opportunity đã không hề trở lại Trái Đất.

[09:17] JPL: Xin lỗi. Phép so sánh tệ hại.

***

Căn Phòng Trắng chộn rộn với những hoạt động khi các kỹ thuật viên dán kín Iris vào một container vận chuyển được thiết kế đặc biệt.

Các nhân viên của hai ca kia nhìn từ ban công quan sát. Họ gần như đã không nhìn thấy nhà mình cả hai tháng nay; một phòng ngủ tập thể tạm thời đã được dựng nên trong căng teen. Một phần ba những người trong số họ thường ngủ vào giờ này, nhưng họ không để lỡ giờ phút này.

Trưởng ca thắt chặt con ốc cuối cùng. Khi ông gỡ vít ra, các kỹ sư vỗ tay hoan hô. Nhiều người còn rưng rưng nước mắt nữa.

Sau 62 ngày làm việc cật lực, Iris cuối cùng cũng xong.

***

“Mọi chuẩn bị cho việc phóng tàu đã hòan thành,” Annie Montrose nói với phòng báo chí. “Iris đã sẵn sàng. Giờ phóng theo kế họach là 9:14 sáng.

“Khi phóng xong, nó sẽ ở trong quỹ đạo ít nhất ba tiếng. Trong thời gian đó, nhóm điều khiển phi vụ sẽ thu thập độ xa chính xác để chuẩn bị cho cú phóng vụt chuyển đường đi sao Hỏa. Sau khi quá trình ấy xong thì phi vụ sẽ được giao lại cho đội gửi đồ dự trữ Ares 3, nhóm ấy sẽ theo dõi tiến triển của nó vài tháng tiếp theo đó. Tàu sẽ mất 414 ngày mới đến sao Hỏa.”

“Về hàng vận chuyển,” một phóng viên hỏi. “Tôi nghe nó có những thứ khác ngoài thức ăn?”

“Đúng thế,” Annie mỉm cười. “Chúng tôi dành ra 100 gram để gửi vài thứ xa xỉ. Có vài lá thư viết tay từ gia đình Mark, một tin nhắn từ Tổng thống, và một chiếc USB chứa đầy nhạc của mọi thời đại.”

“Có bản disco nào không?” Ai đó hỏi.

“Không có bản discon nào,” Annie đáp khi tiếng cười khúc khích lan rộng trong phòng.

Cathy Warner của đài CNN lên tiếng: “Nếu vụ phóng này thất bại, Watney sẽ phải trông cậy vào đâu?”

“Vụ phóng tàu nào cũng có rủi ro,” Annie nói, “nhưng chúng tôi không mong đợi vấn đề nào cả. Thời tiết ở khu Cape trong lành và nhiệt độ ấm áp. Hoàn cảnh không thể nào tốt hơn được nữa.”

“Có giới hạn nào trong ngân sách của hoạt động cứu hộ này không?” Một phóng viên khác hỏi. “Có vài người đã bắt đầu hỏi quá nhiều là bao nhiêu.”

“Đây không phải là vấn đề cốt yếu,” Annie đáp, cố tránh né câu hỏi. “Đây là về một mạng người đang trong nguy hiểm cấp tính. Nếu anh muốn nhìn về mặt tài chính của nó, hãy cân nhắc giá trị của việc Mark đang làm một phi vụ kéo dài. Phi vụ dài kỳ và chiến đấu sinh tồn của anh ấy cho chúng ta nhiều kiến thức về sao Hỏa hơn tất cả những phi vụ Ares cộng lại.”

***

“Anh có tin vào Thiên Chúa không, Venkat?” Mitch hỏi.

“Đương nhiên, nhiều Chúa lắm,” Venkat nói. “Tôi đạo Hindu.”

“Cầu bọn họ ban cho tất cả những sự giúp đỡ với vụ phóng này nhé.”

“Tôi sẽ làm thế.”

Mitch bước về phía trước đến trạm của mình trong phòng điều hành lớn. Ông liếc nhìn vào vô số màn hình ở bức tường đằng xa và hàng tá người ở trạm của họ.

Ông đeo bộ đàm lên và nói: “Đây là Giám đốc Phi vụ bay. Bắt đầu Kiểm tra Tình trạng Phóng.”

“Đã rõ, Houston,” tiếng đáp lời đến thẳng từ Giám đốc Điều hành ở Florida. “CLCDR[1] kiểm tra tất cả các trạm đều có người và các hệ thống sẵn sàng,” ông truyền lệnh, “Cho tôi tín hiệu được/không được để phóng. Máy điện đàm?”

“Được.” Tiếng trả lời vọng ra.

“Đồng hồ bấm giờ.”

“Được.” Một tiếng khác vang lên.

“QAM1[2].”

“Được.”

Mitch chống cằm lên tay mình, nhìn đăm đăm vào màn hình. Trên đó đang chiếu video trực tiếp từ bệ phóng. Máy tăng thế nằm giữa hơi nước mịt mù tiết ra từ quá trình làm nguội, nó vẫn còn dòng chữ EagleEye3 khắc vào bên hông.

“QAM2.”

“Được.”

“QAM3.”

“Được.”

Venkat dựa vào bước tường đằng sau. Ở vị trí hành chính, công việc của ông đến đây là xong. Ông chỉ có thể đứng nhìn và hy vọng. Ánh mắt ông chăm chú nhìn những màn hình hiện lên ở bức tường xa xa. Trong tâm trí ông chỉ nhìn thấy những con số, nhưng ca làm việc bị thay đổi, những lời nói dối trắng trợn và những việc suýt nữa là tội lỗi ông đã làm để chạy phi vụ này. Tất cả mọi thứ đều đáng cả nếu nó thành công.

“FSC[3].”

“Được.”

“Prop 1[4].”

“Được.”

Teddy ngồi trong phòng quan sát VIP đằng sau trạm điều khiển phi vụ. Quyền hành của ông dành cho ông một chỗi ngồi tốt nhất: Ghế giữa ở hàng đầu. Chiếc cặp táp của ông nằm dưới chân và một bìa hồ sơ màu xanh nằm trong tay ông.

“Prop 2.”

“Được.”

“PTO[5].”

“Được.”

Annie Montrose đi đi lại lại trong văn phòng riêng của cô bên cạnh phòng họp báo. Chín ti vi gắn trên tường đang phát sóng từ chín đài khác nhau; mỗi đài đều chiếu cảnh bệ phóng. Nhìn lướt qua máy tính của mình cô thấy cái đài truyền hình nước ngoài cũng đang chiếu cùng một cảnh. Cả thế giới đang nín thở chờ đợi.

“ACC[6].”

“Được.”

“LWO[7].”

“Được.”

Bruce Ng ngồi trong căn tin của JPL giữa hàng trăm kỹ sư đã trao ra hết những gì họ có cho Iris. Họ chăm chú mê mải xem một màn hình TV lớn. Lúc này là 6:13 sáng ở Pasadena, thế nhưng toàn thể nhân viên đều hiện diện ở đó.

“AFLC[8].”

“Được.”

“Hướng dẫn.”

“Được.”

Ở cách đó hàng triệu cây số, phi hành đoàn Hermes tụ tập quanh buồng làm việc của Johanssen để lắng nghe. Thời gian truyền tín hiệu 2-phút chẳng đáng kể. Họ chẳng có cách nào để hỗ trợ; chẳng có lý do cần cấp nào để liên lạc. Johanssen nhìn chăm chú vào màn hình của mình, trên đó chỉ hiển thị mỗi cường độ của tín hiệu âm thanh. Beck siết chặt tay mình. Vogel đứng yên chẳng nhúc nhích, đôi mắt anh dán chặt vào sàn nhà. Ban đầu Martinez cầu nguyện trong im lặng, rồi anh thấy chẳng có lý do gì để che giấu chuyện ấy. Chỉ huy Lewis đứng cách xa mọi người, vòng tay trước ngực.

“PTC[9].”

“Được.”

“Giám đốc phương tiện cất cánh.”

“Được.”
“Houston, đây là Điều khiển Cất cánh, chúng tôi sẵn sàng cho vụ phóng.”

“Đã rõ,” Mitch vừa nói vừa kiểm tra việc đếm ngược. “Đây là Phi vụ, chúng ta sẵn sàng để phóng theo giờ hoạch định.”

“Đã rõ rồi Houston,” Điều khiển Cất cánh lên tiếng, “Phóng theo kế hoạch.”

Khi đồng hồ điểm: -00:00:15, các đài truyền hình đã có được thứ họ đang chờ đợi. Điều khiển Đồng hồ Bấm giờ bắt đầu cất tiếng đếm ngược lớn, nó vang lên “15… 14… 13… 12… 11…”

Hàng ngàn người tập trung ở Cape Canaveral, một đám đông lớn nhất từ trước đến nay đến xem một vụ phóng không người lái. Họ lắng nghe tiếng đếm vang vọng khắp khán đài từ Đồng hồ.

“10… 9… 8… 7…”

Rich Purnell vẫn còn cố thủ quanh những tính toán quỹ đạo của mình, anh đã quên hết thời gian. Anh không hề để ý thấy các đồng nghiệp của mình đang di chuyển đến phòng họp lớn nơi một TV đã được nối kết sẵn. Trong tâm trí anh, anh chỉ nghĩ rằng văn phòng hôm nay yên ắng đến lạ thường, nhưng anh chẳng màng suy nghĩ sâu xa thêm nữa.

“6… 5… 4…”

“Chuỗi khai hỏa bắt đầu.”

“3… 2… 1…”

Bàn kẹp mở ra; máy tăng thể bay lên giữa chùm khói lửa, ban đầu còn chầm chậm, sau đó bay vụt nhanh đến không ngờ. Đám đông tụ tập đó liền hoan hô cổ vũ nó.

“… và phóng Tàu Dự Trữ Iris,” Điều khiển Đồng hồ lên tiếng.

Sau khi máy tăng thế đã bay lên cao, Mitch chẳng có thời gian để nhìn quang cảnh trên màn hình. “Góc độ?” Ông hỏi lớn.

“Góc độ tốt, thưa Giám đốc.” Tiếng trả lời đến ngay lập tức.

“Đường đi?” Ông hỏi.

“Đúng hướng.”

“Độ cao 1000 mét,” ai đó lên tiếng.

“Chúng ta đã đến chỗ hủy-an-toàn,” một người khác lên tiếng, cho biết rằng con tàu có thể rơi sầm xuống biển Đại Tây Dương mà không nguy hại đến ai nếu cần thiết.”
“Độ cao 1500 mét.”

“Bắt đầu hoạt động xoay đuôi và cánh tàu.”

“Hơi bị rung, thưa giám đốc.”

Mitch nhìn sang Giám đốc cất cánh. “Nói lại xem?”

“Hơi rung. Hướng dẫn trên tàu đang xử lý.”

“Nhớ để mắt đến nó,” Mitch nói.

“Độ cao 2500 mét.”

“Hoàn thành hoạt động xoay đuôi và cánh tàu, còn 22 giây là bắt đầu giai đoạn.”

 

Thiết kế nhanh mà kỹ lưỡng của Iris đã tính đến trường hợp thảm họa hạ cánh. Thay vì đóng gói những khẩu phần ăn bình thường, hầu hết lượng lương thực được đóng thành những thanh đạm hình vuông. Ngay cả khi Iris thất bại trong việc ném những bong bóng của nó ra và va chạm ở vận tốc vài trăm cây số một giờ, những khối vuông thức ăn đó vẫn còn dùng được.

Một phi vụ không người lái thì không có mức gia tốc tối đa. Những thứ bên trong con tàu sẽ chịu đưng những lực mạnh chẳng con người nào có thể sống sót nếu bị trúng phải. Tuy NASA đã thử nghiệm hiệu ứng của trọng lực cực độ lên các viên thức ăn vuông, họ đã không làm điều đó với sự rung chuyển chiều ngang liên tục. Nếu họ có thêm thời gian, họ đã làm thế.

Sự rung chuyển vô hại do sự mất thăng bằng khi nhiên liệu hòa lẫn vào nhau làm lung lay khối hàng bên trong. Iris được lắp ráp bằng những con vít vững chắc, nên nó rất kiên cố. Nhưng những viên đạm hình vuông thì không.

Phản lực đè ép khối lương thực còn sự rung chuyển thì lay động nó. Một hiệu ứng tương đương với sự hóa lỏng trong một cuộc động đất đã chuyển hóa các viên đạm thành một chất bùn quánh dày đặt. Ban đầu nó được đặt trong một ngăn chứa chẳng có chỗ dư thừa nào, giờ chất lỏng bị ép ấy lại có chổ để giã đập.

Sự rung chuyển bị tạo ra do sự mất cân bằng của tải trọng, khiến chất lỏng không còn cách nào là phải di chuyển về rìa của ngăn chứa. Sự di chuyển của trọng lượng chỉ làm cho vấn đề càng trầm trọng hơn và sự rung chuyển càng tăng mạnh hơn.

 

“Rung càng mạnh bạo hơn,” Giám đốc cất cánh báo cáo.

“Mạnh bao nhiêu?” Mitch hỏi.

“Hơn chúng ta muốn,” ông đáp. “Nhưng gia tốc kế đã phát hiện ra và đang tính tọa độ khối tâm. Máy tính hướng dẫn đang điều chỉnh phản lực của động cơ để trung hòa. Chúng ta vẫn ổn.”

“Nhớ cập nhật cho tôi,” Mitch nói.

“Còn 13 giây là bắt đầu giai đoạn.”

 

Vấn đề thay đổi trọng lượng chưa hẳn đã gây ra một thảm họa. Tất cả các hệ thống được thiết kế cho hoàn cảnh xấu nhất; chúng đã làm rất tốt công việc của mình. Con tàu tiếp túc đi về vùng khí quyển chỉ với chút xíu thay đổi trong hướng đi đã được tự động cập nhật bằng phần mềm tinh vi.

Giai đoạn đầu tiên đã làm cạn sạch nhiên liệu của nó, và máy tăng thế trượt xuống trong phần giây khi nó ném bỏ bàn kẹp thông qua một con ốc tự nổ tung. Bệ đài trống rỗng rơi khỏi con tàu khi động cơ của giai đoạn thứ hai bắt đầu đánh lửa khởi động.

Những lực tàn bạo đã biến mất. Dung dịch đạm trôi lơ lửng tự do trong ngăn chứa. Chỉ với hai giây thôi, nó đã có thể nở ra và đông đặc lại. Nhưng nó chỉ được cho một phần tư giây.

Khi gian đoạn hai khởi động, con tàu chịu ngay một lực xóc nảy mạnh kinh khiếp. Giờ con tàu không phải đấu tranh với trọng lượng chết của giai đoạn đầu, sự tăng tốc thật dữ dội. Ba trăm kí lô dung dịch va thẳng vào khung sau của ngăn chứa. Chỗ va chạm nằm ở mé ngoài của Iris, hoàn toàn xa ra vị trí ban đầu của trọng lượng.

Dù Iris được đóng kiên cố bằng năm con ốc lớn, lực mạnh dồn toàn bộ vào một con duy nhất. Con ốc đã được thiết kế để chịu được lực mạnh với cường độ lớn; nếu cần thiết nó có thể chống đỡ toàn bộ tải trọng của khối hàng. Nhưng nó đã không được thiết kế để chịu một va chạm bất thình lình từ một khối nặng 300 kí.

Con ốc bị đứt gãy. Toàn bộ sức nặng lập tức chuyển dời về bốn con ốc còn lại. Sự va chạm mạnh bạo đã qua đi, nhiệm vụ của chúng xem ra dễ dàng hơn vị đồng chí đã hy sinh.

Nếu nhóm làm bệ phóng có thêm thời gian cho một cuộc kiểm định bình thường, họ đã để ý thấy khiếm khuyết nhỏ trong một con ốc. Một hư hỏng làm chúng hơi yếu đi, nhưng không đủ để khiến một phi vụ bình thường phải thất bại. Dù sao thì, họ đã có thể thay thế nó với một con ốc hoàn hảo hơn.

Iris trượt khỏi cột chống đỡ trong vỏ phi thuyền của nó, va thẳng vào thân tàu.

 

“Ối trời!” Giám đốc cất cánh la lên. “Giám đốc, chúng ta đang có một sự thay đổi trục quay lớn.”

“Cái gì?” Mitch nói trong khi những còi báo động kêu inh ỏi và đèn chớp nhóa khắp bàn điều khiển.

“Lực trên Iris ở 7 g,” ai đó lên tiếng.

“Mất tín hiệu rời rạc,” một giọng nói khác.

“Cất cánh, chuyện gì đang xảy ra đây?” Mitch hỏi gặng.

“Chuyện kinh hồn đang xảy ra. Nó đang xoay mòng mòng theo trục thẳng với tọa độ nghiêng 17 độ.”

“Kinh đến mức nào?”

“Ít nhất 5 vòng một giây, và đang trật khỏi đường đi.”

“Anh có thể đưa nó vào quỹ đạo không?”

“Tôi không thể liên lạc được với nó; các tín hiệu chỗ nào cũng có vấn đề.”

“Liên lạc!” Mitch gọi sang Giám đốc Liên lạc.

“Đang sửa chữa đây, Giám đốc,” tiếng trả lời vang lên. “Có vấn đề với hệ thống trên tàu.”

“Nhận được một lực g lớn bên trong, Giám đốc.”

“Định vị từ mặt đất cho thấy nó ở vị trí 200 mét thấp hơn đường đi theo mục tiêu.”

“Chúng ta mất tín hiệu từ Iris rồi, Giám đốc.”

Mitch lập tức chú ý ngay đến bình luận ấy. “Hoàn toàn mất rồi à?” Mitch hỏi.

“Xác nhận, thưa Giám đốc. Tín hiệu rời rạc từ cả con tàu, nhưng không có của  Iris.”

“Cứt thật,” Mitch nói. “Nó lắc lư bên trong vỏ tàu.”

“Nó đang xoay chuyển, thưa Giám đốc.”

“Nó có thể đi rề rề đến quỹ đạo không?” Mitch hỏi. “Thậm chí dùng EO[10] thật thất? Chúng ta có thể…”

“Mất tín hiệu, thưa Giám đốc.”

“Mất tín hiệu ở đây luôn.”

“Bên đây cũng vậy.”

Cả căn phòng trở nên câm lặng, chỉ còn tiếng còi báo hiệu oang oang.

Sau một hồi, Mitch nói: “Thiết lập lại được không?”

“Không có chút nào,” Liên lạc nói.

“Dưới đất?” Mitch hỏi.

“GC[11] đây,” tiếng trả lời vang lên, “Con tàu đã rời khỏi tầm nhìn.”

“SatCon (Liên lạc Vệ tinh)?” Mitch hỏi

“Không nhận được tín hiệu nào từ vệ tinh.”

Mitch nhìn thẳng vào màn hình. Giờ nó đen thui, chỉ có dòng chữ LOS (Loss of Signal: Mất tín hiệu) lớn nhấp nháy.

“Giám đốc,” có tiếng gọi ông từ radio. “US Destroyer Stockton báo cáo có mảnh vụn rơi xuống từ trên trời. Nguồn trùng khớp với vị trí cuối cùng của Iris.”

Mitch ôm lấy đầu mình. “Đã rõ,” ông nói.

Rồi ông thốt ra những từ mà một Giám đốc Phi vụ bay hy vọng chẳng bao giờ phải nói ra: “GC, Giám đốc Phi vụ bay đây. Khóa cửa đi.”

Đó chính là tín hiệu bắt đầu thủ tục sau một vụ bay thất bại.

Từ khán đài quan sát VIP, Teddy nhìn Trung tâm Điều hành Phi vụ chán nản. Ông hít một hơi sâu, rồi thở dài ra. Ông nhìn một cách khổ sở vào bìa hồ sơ màu xanh của mình, trong đó có bài diễn thuyết tươi vui chúc mừng một phi vụ thành công hoàn hảo. Ông nhét nó vào cặp táp của mình và lôi ra một bìa hồ sơ màu đỏ với bải diễn thuyết kia.

 

Venkat ngồi trong văn phòng tối tăm. Ông chưa từng quyết định ở trong bóng tối thế này. Chỉ là ông đã lạc mất trong tâm trí mình quá lâu đến nỗi trời đã dần tối.

Điện thoại di động của ông vang lên. Lại là vợ ông. Rõ ràng là bà đang lo lắng cho ông. Ông để nó rung rồi tự động chuyển vào hộp tin nhắn. Ông chẳng thể đối diện với bà. Hoặc với ai cả.

Một tiếng chuông vang ra từ máy tính của ông. Ông quay sang nhìn và thấy một email từ JPL. Một tin nhắn được chuyển từ Pathfinder:

 

[16:03] WATNEY: Vụ phóng sao rồi?

 


 

Chú thích: Tất cả những chú thích ở đây là sự phỏng đoán theo kiến thức của người dịch vì trong tác phẩm không hề ghi ra những hiệu lệnh này có ý nghĩa gì. Để giúp độc giả hiểu hơn về quá trình phóng một tàu thăm dò, dưới phần chú thích còn có một video thật về quá trình phóng tên lửa của NASA, có vẻ như tác giả đã dựa vào video để viết đoạn sách phía trên. 

[1] CLCDR: Chief Launch Controller (Trưởng Điều hành Phòng tàu)
[2] QAM: Quadrature amplitude modulation (Hệ thống điều chế biên độ cầu phương, dùng để chuyển tín hiệu tương tự hoặc số tự)
[3] FSC: Fuel System Controller (Điều khiển Hệ thống Nhiên liệu)
[4] Prop: Propeller (Cánh quạt phản lực)
[5] PTO: Power Take-off (Cất cánh Khởi động)
[6] ACC:  Airspace Coordinate Controller (Điều khiển Tọa độ Không gian)
[7] LWO: Limited Weather Observation (Quan sát Thời tiết Giới hạn)
[8] AFLC: Air Force Logistics Command (Chỉ huy Không quân Hậu cần)
[9] PTC: Power Temperature Control (Điều khiển Nhiệt độ)
[10] EO: Emergency Operation (Hoạt động khẩn cấp)
[11] GC: Ground Control (Điều hành Dưới mặt đất)


Photo Credit: Century Fox Movie photo, Youtube