Keep on reading

Người Sao Hỏa (The Martian) by Andy Weir (25)

Người Sao Hỏa

Tác giả: Andy Weir
Người dịch: conruoinho

Thể loại: Khoa học viễn tưởng (scifi)

Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.
Truyện dịch từ bản Advance Read nên có thể không giống hoàn toàn với bản xuất bản.

martianedit_464

Mục Lục

1 – 2 3 456 – 789101112 – 13 1415161718 – 1920212223242526


 (25)

 

Nhật trình: Sol 505

Cuối cùng tôi đã đến nơi! Tôi ở chỗ MAV!

À, ngay giây phút này đây, thì tôi đang ở bên trong rover. Tôi đã vào MAV để kiểm tra hệ thống và khởi động máy móc. Tôi phải mặc EVA suốt thời gian đó vì những hệ thống duy trì sự sống không có trong đó.

Hiện giờ nó đang chạy một chương trình tự kiểm tra, và tôi truyền ôxy và nitơ vào bên trong qua một ống dẫn từ rover. Đây hoàn toàn là do thiết kế của MAV. Nó không đem theo nguồn khí nào. Tại sao phải đem chứ? Chúng chỉ là trọng lượng không cần thiết trong khi ta có căn Hab đầy khí nằm ngay kế bên.

Tôi đoán là mấy anh bạn bên NASA đang cụng vài ly sâm panh vào lúc này và đang gửi tôi nhiều tin nhắn lắm đây. Lát nữa tôi sẽ đọc. Giờ việc nào quan trọng thì làm trước: Kết nối hệ thống duy trì sự sống cho MAV. Rồi sau đó tôi sẽ có thể thoải mái làm việc bên trong.

Và tiếp theo tôi sẽ có một cuộc trò chuyện chán ngắt với NASA. Nội dung thì có lẽ thú vị đấy, nhưng thời gian 14 phút chờ đợi thông tin truyền đi truyền về giữa Trái Đất và sao Hỏa này thì sẽ rất buồn tẻ.

 

[13:07] HOUSTON: Xin gửi anh lời chúc mừng từ tất cả mọi người ở khu Điều Hành Phi Vụ này! Làm tốt lắm! Tình trạng của anh?
[13:21] MAV: Cảm ơn! Không vấn đề về mặt sức khỏe hay thể lực. Con rover và toa tải tàn tạ lắm rồi, nhưng vẫn hoạt động. Máy tạo ôxy và máy điều hòa đều chạy tốt. Tôi không mang theo máy lọc nước. Chỉ đem nước thôi. Còn nhiều khoai tây. Đủ sống đến 549.
[13:36] HOUSTON: Rất vui khi nghe điều đó. Hermes vẫn đúng kế hoạch bay tạt ngang trên đó vào Sol 549. Như anh đã biết, chiếc MAV sẽ phải giảm trọng lượng để có thể bay lên giao nhau với Hermes. Nội trong ngày chúng tôi sẽ gửi anh những quy trình sửa chửa. Anh còn bao nhiêu nước? Còn nước tiểu anh đã xử lý sao rồi?
[13:50] MAV: Tôi còn 550 lít nước. Tôi đã đổ nước tiểu trên đường đi.
[14:50] HOUSTON: Bảo tồn mọi nguồn nước. Đừng đổ nước tiểu nữa. Lưu trữ chúng chỗ nào đó. Bật radio của rover lên và để nó nguyên như vậy. Chúng tôi có thể liên lạc với nó qua MAV.

 

***

 

“Vậy nó đã sẵn sàng?” Venkat nói.

“Đúng, đã sẵn sàng.” Bruce nói. “Nhưng chắc anh sẽ không thích nó đâu.”

“Nói tiếp nghe nào.”

“Nhớ là,” Bruce nói, lấy trong cặp táp ra một quyển sổ, “Đây là kết quả của hàng nghìn giờ làm việc, thử nghiệm và suy nghĩ sáng tạo của tất cả những tay giỏi nhất ở JPL.”

“Tôi chắc rằng thật khó mà cắt giảm một con tàu vốn đã được thiết kế trọng lượng của nó nhẹ nhất trong khả năng cho phép,” Venkat nói.

Bruce đẩy quyển sổ qua phía bên kia bàn đến chỗ Venkat. “Vấn đề và vận tốc giao nhau. Chiếc MAV được thiết kế để đi vào Quỹ đạo thấp của sao Hỏa, tức 4.1 km/giây. Nhưng Hermes sẽ bay tạt ngang ở vận tốc 5.8 km/giây.”

Venkat lật tung những trang giấy. “Có hứng tóm tắt mọi thứ không?”

“Đầu tiên, chúng ta sẽ thêm nhiên liệu. Chiếc MAV tự tạo nhiên liệu cho nó từ khí quyển sao Hỏa, như nó bị giới hạn bởi lượng hydrô có sẵn. Nó đem đủ để tạo 19,397 kí nhiên liệu, như thiết kế của nó. Nếu chúng ta có thể cho nó thêm hydrô, nó có thể tạo thêm.”

“Thêm bao nhiêu?”

“Với mỗi kí hydrô, nó có thể tạo 13 kí nhiên liệu. Watney có 550 lít nước. Chúng ta có thể dùng phương pháp điện phân để tách 60 kí hydrô.” Bruce với tay qua và lật vài trang trong sổ, ngón tay anh chỉ vào một sơ đồ. “Thiết bị có thể tạo ra 780 kí nhiên liệu từ đó.”

“Nếu cậu ta điện phân nước rồi thì cậu ta sẽ uống cái gì?”

“Cậu ấy có thể điện phân nước tiểu, nên chúng ta chỉ cần để dành vài lít nước cho cậu ta uống vài ngày cuối.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy 780 kí nhiên liệu cho chúng ta cái gì?” Venkat hỏi.

“Nó cho chúng ta thêm 300 kí trọng tải. Mọi thứ quy về nhiên liệu và trọng tải. Trọng lượng khi cất cánh của MAV là 12,600 kí. Chúng ta cần giảm nó xuống còn 7,300 kí. Đó là tính luôn nhiên liệu rồi đấy. Phần còn lại trong quyển sổ này bao gồm chỉ dẫn làm thế nào để giảm hơn 5000 kí từ con tàu.”

Venkat dựa người vào ghế. “Giải thích cho tôi xem.”

Bruce lôi thêm một bản sao của quyển sổ từ trong cặp táp ra. “Có vài thứ nhìn vào là biết không cần thiết rồi. Thiết kế kèm thêm 500 kí đất sao Hỏa và mẩu đá. Đương nhiên chúng ta không dùng đến. Ngoài ra, chỉ có một  hành khách thay vì năm. Như vậy cả thảy là 500 kí bao gồm cân nặng của họ, bộ áo du hành và các thứ phụ tùng. Chúng ta có thể bỏ luôn năm chiếc ghế tăng tốc kia nữa. Và đương nhiên, cả những thứ lặt vặt không quan trọng. Bộ dụng cụ y tế, dụng cụ sửa sữa, dây an toàn bên trong, dây nối, và tất tần tật những thứ không được đóng chặt vào. Coi vậy chứ cũng nhiều đồ thuộc loại này lắm nhé.”

“Tiếp theo,”  Bruce nói tiếp. “Chúng ta bỏ luôn mấy hệ thống duy trì sự sống. Thùng chứa, máy bơm, máy sưởi, đường dây dẫn khí, hệ thống thu thập CO2, và ngay cả vỏ tàu bên trong. Chúng ta không cần thứ đó. Chúng ta sẽ buộc Watney mặc áo EVA của cậu ấy suốt quãng đường đi.”

“Nếu thế thì không phải thật lấn cấn khi cậu ta phải dùng bàn điều khiển sao?” Venkat hỏi.

“Cậu ấy sẽ không dùng cần điều khiển nào,” Bruce nói. “Thiếu tá Martinez sẽ điều khiển MAV từ Hermes. Nó vốn được thiết kế để điều khiển từ xa. Xét cho cùng thì nó đã được hạ cánh từ xa đấy.”

“Nếu có chuyện gì xảy ra thì sao?” Venkat hỏi.

“Martinez là phi công được huấn luyện giỏi nhất,” Bruce nói. “Nếu có chuyện gì xảy ra thì anh ấy mới chính là người điều khiển con tàu mà ta muốn.”

“Hừm,” Venkat cẩn trọng nói. “Chúng ta chưa bao giờ có một con tàu có người lái nhưng lại bị điều khiển từ xa bao giờ. Nhưng ok thôi. Tiếp đi.”

“Bởi vì Watney sẽ không điều khiển con tàu,” Bruce tiếp tục, “cậu ấy sẽ không cần đến mấy cần điều khiển ấy. Chúng ta sẽ bỏ luôn bảng điều khiển và tất cả những đường dẫn điện và dữ liệu nối chúng lại với nhau.”

“Wow,” Venkat nói. “Chúng ta thật sự luộc sạch sẽ con tàu này nhỉ.”

“Tôi chỉ mới bắt đầu thôi,” Bruce nói. “Giờ lượng điện tiêu thụ sẽ giảm xuống nhiều khi mấy hệ thống duy trì sự sống ấy biến mất, nên chúng ta bỏ luôn ba trong năm bảng pin và hệ thống điện hỗ trợ. Hệ thống Thao tác Quỹ đạo có dư ba máy phản lực. Chúng ta tống chúng đi luôn. Ngoải ra, hệ thống liên lạc phụ thứ hai và thứ ba cũng có thể đi luôn.”

“Khoan đã, cái gì chứ?” Venkat sửng sốt nói. “Anh sẽ bay lên bằng một hệ thống điều khiển từ xa mà chẳng có hệ thống liên lạc dự phòng nào?”

“Chẳng ích gì đâu,” Bruce nói. “Nếu hệ thống liên lạc bị hỏng trong lúc bay lên, thời gian nó cần để nối lại liên lạc quá lâu để có thể giúp được cái gì. Hệ thống dự phòng chẳng ích gì cả.”

“Vụ này càng ngày càng liều lĩnh đó Bruce.”

Bruce thở dài. “Tôi biết, Venkat à. Nhưng chẳng có cách nào khác. Và tôi còn chưa nói đến mấy chỗ ghê gớm nữa đấy.”

Venkat vân vê trán mình. “Thôi làm tiếp đi, kể tôi nghe đoạn kinh dị luôn đi.”

“Chúng ta sẽ tháo cửa khóa khí chóp mũi, các cửa sổ, và cả bảng Vỏ tàu 19.”

Venkat chớp mắt. “Các anh muốn tháo đầu tàu ra luôn à?”

“Đương nhiên,” Bruce nói. “Mình cửa khóa khí chóp mũi thôi đã nặng 400 kí rồi. Mấy cửa sổ kia cũng nặng như quỷ ấy. Chúng được kết nối với bảng Vỏ tàu 19 nên sẵn ta tháo nó luôn.”

“Vậy cậu ta sẽ phóng tàu với một cái lỗ to tổ bố trên đầu tàu à?”

“Chúng ta sẽ kêu cậu ấy dùng vải bạt căn Hab để trùm nó lại.”

“Vải bạt căn Hab? Để phóng tàu vào quỹ đạo à!?”

Bruce nhún vai. “Vỏ tàu chỉ ở đó để giữ không khí ở lại bên trong. Khí quyển sao Hỏa mỏng đến nỗi không cần che chắn khí quá mức. Đến lúc tàu đi đủ nhanh để lực cản không khí có thể ảnh hưởng đến nó, thì nó cũng đã ở tuốt trên cao, chỗ ấy có thể coi như là chẳng có tí không khí nào. Chúng tôi đã chạy thử  mô hình rồi. Sẽ ổn thôi.”

“Các anh đưa cậu ta vào không gian bằng tấm vải nhựa?”

“Có thể cho là vậy, ừm.”

“Giống như một cái xe bán tải được chất đồ một cách vội vã.”

“Vâng. Tôi nói tiếp được chưa?”

“Đương nhiên, hồi hộp lắm rồi đây.”

“Chúng ta sẽ kêu cậu ấy tháo luôn tấm bảng đuôi của toa tàu có áp suất. Đó là bảng duy nhất mà cậu ta có thể dùng mấy dụng cụ bằng tay sẵn có để tháo ra. Ngoài ra, chúng ta sẽ tống khứ luôn bơm nhiên liệu phụ. Chúng tôi thấy buồn khi nó phải ra đi, nhưng cân nặng của nó vượt quá mức hữu dụng của nó rồi. Và chúng sẽ bỏ luôn động cơ Giai đoạn 1.”

“Động cơ?”

“Đúng thế. Máy tăng thế Giai đoạn 1 vẫn hoạt động bình thường ngay cả khi một động cơ bị hư. Nó sẽ giúp ta giảm nhiều trọng lượng lắm đây. Chỉ trong lúc bay lên Giai đoạn 1 thôi, nhưng thế cũng được.  Tiết kiệm kha khá nhiên liệu đấy.”

Rồi Bruce im lặng.

“Thế thôi?” Venkat hỏi.

“Ừ.”

Venkat thở dài. “Các anh tháo rời gần hết những bộ phận an toàn dự phòng. Ước tính tỉ lệ thất bại của cách này là bao nhiêu?

“Chừng 4 %.”

“Chúa ơi,” Venkat nói. “Thậm chí bình thường chúng ta còn chưa bao giờ để ý những cách rủi ro như vậy.”

“Chúng tôi chỉ có cách đó thôi Venk,” Bruce nói. “Chúng tôi đã thử nghiệm tất cả mọi thứ và chạy đủ loại mô hình mẫu. Chúng ta sẽ ổn thôi nếu mọi thứ hoạt động theo kế hoạch.”

“Ừ. Tuyệt.” Venkat nói.

 

***

 

[08:41] MAV: Đùa bố mày ấy à?
[09:55] HOUSTON: Chúng tôi phải thừa nhận đó là những chỉnh sửa quá xâm hại, nhưng ta phải làm thế thôi. Tài liệu chứa quy trình chúng tôi gửi anh có hướng dẫn cho mỗi bước với những dụng cụ anh sẵn có. Ngoài ra, anh cần bắt đầu điện phân nước để lấy hydrô cho máy tạo nhiên liệu. Chúng tôi sẽ gửi quy trình đó cho anh sớm.
[09:09] MAV: Các anh đưa tôi bay vào không gian trong chiếc xe lật mui.
[09:24] HOUSTON: Vải bạt căn Hab sẽ che chắn mấy cái lỗ. Chúng sẽ cung cấp đủ khí động lực trong khí quyển sao Hỏa.
[09:38] MAV: Nó có cái mui bằng giẻ rách. Vậy tốt hơn nhiều rồi đấy.

 

Nhật trình: Sol 506

Trên đường đến đây, tôi có khá nhiều thời gian, nên tôi đã thiết kế một “buồng làm việc.” Tôi cho rằng mình sẽ cần một không gian để làm những việc cần thiết mà không cần phải mặc áo EVA. Tôi nghĩ ra một kế hoạch tuyệt hảo biến phòng ngủ hiện tại thành nhà mới cho máy điều hòa không khí và máy tạo ôxy, và toa tải trống trơn lúc này sẽ trở thành buồng làm việc.

Đó là một ý tưởng ngu ngốc và tôi không làm chuyện đó nữa.

Tôi chỉ cần một khu vực có áp suất tôi có thể làm việc bên trong. Bằng cách nào đó tôi thuyết phục chính mình rằng đó không phải là một chọn lựa vì thật rắc rối đem đồ ra vào trong ấy.

Nó được gắn vào cửa khóa khí của rover, nên cách duy nhất để ra vào thật là phiền phức. Đem đồ vào trong rover, gắn phòng ngủ vào cửa khóa khí từ bên trong, thổi nó lên, đem đồ vào phòng ngủ. Tôi sẽ phải dọn dẹp phòng ngủ và cả mấy dụng cụ thiết bị để xếp nó lại mỗi lần tôi muốn làm chuyến EVA.

Nên đúng thế, sẽ thật phiền phức, nhưng chỉ tốn thời gian của tôi mà thôi. Và thật sự thì tôi đang có nhiều thời gian. Tôi còn 43 sol mới đến ngày Hermes bay tạt ngang. Và sau khi nghiên cứu những quy trình chỉnh sửa NASA dự tính, tôi có thể tận dụng MAV để dùng làm buồng làm việc.

Đám điên ở NASA bắt tôi lột trần truồng MAV đủ kiểu, nhưng tôi không phải mở vỏ tàu cho đến phút cuối cùng. Nên việc đầu tiên tôi làm là dọn dẹp mấy thứ bừa bộ, như ghế và bảng điều khiển chẳn hạn. Một khi chúng đã biến đi, tôi có nhiều chỗ bên trong để làm việc.

Nhưng hôm nay tôi đã không làm gì với chiếc MAV sắp bị cắt xẻo đến què quặt kia. Hôm nay là ngày chỉ dành cho việc kiểm tra hệ thống. Giờ tôi đã liên lạc được lại với NASA, tôi phải trở về với phong cách “an toàn là trên hết.” Thật kỳ lạ, NASA không có niềm tin với con rover đã được “tân trang” hoặc với phương pháp nhồi nhét tất cả vào bên trong toa tải của tôi. Họ bắt tôi chạy kiểm tra toàn bộ cho tất cả mọi hệ thống.

Mọi thứ vẫn hoạt động ổn thôi, mặc dù nó đang bị hao mòn dần rồi. Máy điều hòa và máy tạo ôxy đều hoạt động dưới mức hiệu suất tối đa (ít ra là vậy) và toa tải mỗi ngày đều rò rỉ thêm chút không khí. Chưa đủ để gây ra sự cố nào, nhưng cũng không phải là kín hoàn toàn. NASA đứng ngồi không yên vì việc này, nhưng chúng tôi lại chẳng có sự lựa chọn nào khác.

Rồi họ kêu tôi chạy chẩn đoán toàn diện cho MAV. Chiếc này ở trong tình trạng tốt hơn nhiều. Mọi thứ bóng cáu cạnh và mới toanh và hoạt động hoàn hảo. Suýt chút nữa tôi đã quên thiết bị mới trông ra làm sao.

Đáng tiếc là tôi sắp phá nó banh ta lông ra.

 

“Anh GIẾT Watney mất rồi,” Lewis nói.

“Vâng,” Martinez đáp, quắc mắt nhìn màn hình của mình. Dòng chữ “Va chạm với địa hình” nhấp nháy buộc tội anh.

“Em chơi xỏ anh ấy,” Johanssen nói. “Em cho anh ấy chỉ số độ cao bị sai và cắt 3 động cơ sớm. Đó là một sự kết hợp chết người.”

“Đáng lý không phải khiến phi vụ thất bại đâu,” Martinez nói. “Đáng lý tôi phải nhận ra ngay chỉ số bị sai. Số đó sai be bét luôn.”

“Đừng nghĩ ngợi nhiều,” Lewis nói. “Đó là lý do chúng ta tập dợt. Anh còn ba tuần để làm cho đúng.”

“Tôi sẽ tập,” Martinez nói.

“Chúng ta chỉ có một tuần luyện tập cách phóng tàu từ xa,” Johanssen nói. “Và điều đó đáng lý chỉ xảy ra trong trường hợp chúng ta va chạm trước khi hạ cánh. Chúng ta phóng MAV và bắt nó hoạt động như một vệ tinh. Đó là tình huống giảm thiểu thất thoát tối đa.”

“Giờ là tình trạng then chốt cho phi vụ,” Lewis nói. “Nên anh phải làm cho đúng.”

“Vâng, Chỉ huy.” Martinez nói.

“Khởi động lại chương trình mô phỏng,” Johanssen nói. “Anh có muốn thử chương trình đặc biệt nào không?”

“Chọn cái nào khiến tôi bất ngờ xem,” Martinez nói.

Lewis rời khỏi phòng điều khiển, đi về phía lò phản ứng. Cô leo “lên” thang hướng về trung tâm của con tàu, lực hướng tâm của cô giảm xuống gần như ở con số không khi cô càng đến gần trục tâm tàu. Vogel nhìn lên từ máy tính.

“Chỉ huy hả?”

“Mấy động cơ sao rồi?” Cô hỏi, nắm vào tay vịn trên tường để có thể giữ nguyên vị trí trong căn phòng đang chầm chậm xoay vòng.

“Đều hoạt động trong phạm vi cho phép,” Vogel nói. “Giờ tôi đang chạy một chẩn đoán cho lò phản ứng. Tôi nghĩ Johanssen đang bận với việc tập dợt phóng tàu. Nên có lẽ tôi nên làm nhiệm vụ này hộ cô ta.”

“Ý tốt đấy,” Lewis nói. “Đường đi của chúng ta sao rồi?”

“Mọi thứ đều ổn,” Vogel nói. “Không có chỉnh sửa cần thiết nào cả. Chúng ta vẫn đi theo đường đi dự định, chỉ chênh lệch 4 mét.”

“Nhớ báo cáo tôi biết nếu có gì thay đổi.”

“Ja, Chỉ huy.”

Lewis bay là là đến phía bên kia của trục tâm tàu, kéo thang xuống, và lấy lại trọng lực khi cô đi “xuống” thang. Cô bước đến phòng chờ của cửa Airlock 2.

Beck một tay cầm một cuộn dây kim loại, một tay cầm đôi bao tay. “Ô này, Chỉ huy. Có chuyện gì không?”

“Tôi muốn biết kế hoạch đón Mark về của anh.”

“Cũng dễ dàng thôi nếu giao điểm chuẩn xác,” Beck nói. “Tôi chỉ vừa kết nối dây buộc vào một đường dây dài hơn. Cả thảy 214 mét. Tôi sẽ đeo bộ MMU, như vậy di chuyển sẽ dễ dàng hơn. Tôi có thể đi với tốc độ lên đến 10 mét/giây mà vẫn an toàn. Nếu hơn thế thì tôi sẽ có rủi ro làm đứt dây buộc nếu không thể dừng lại kịp lúc.”

“Anh có thể xử lý vận tốc tương đối đến bao nhiêu, anh nghĩ thử coi?”

“Ý cô là khi tôi đến chỗ cậu Mark? Tôi có thể bắt lấy MAV dễ dàng trong vòng 5 mét/giây. Với vận tốc 10 mét/giây thì có lẽ hơi giống với nhảy lên một con tàu lửa đang chạy. Nếu mà nhanh hơn vậy nữa thì tôi có thể bị lỡ mất.”

“Vậy là, tính luôn cả vận tốc an toàn của MMU, chúng ta cần phải ở trong vòng 20 mét/giây của vận tốc của Mark.”

“Và giao điểm phải trong phạm vi 214 mét,” Beck nói. “Sai số biên rất thấp đấy.”

“Chúng ta có nhiều thời gian dự trù,” Lewis nói. “Vụ phóng sẽ diễn ra trong vòng 52 phút trước khi đến giao điểm, và chuyến bay mất 12 phút. Ngay khi động cơ S2 của Mark tắt thì chúng ta sẽ biết địa điểm và vận tốc giao điểm của chúng ta. Nếu không thích, chúng ta có 40 phút để điều chỉnh. Động cơ 2 mm/giây của chúng tuy có vẻ không nhiều, nhưng trong vòng 40 phút chúng ta có thể di chuyển đến 5.7 km.”

“Tốt,” Beck nói. “Và cự li 214 mét thực chất cũng không phải là giới hạn bắt buộc.

“Nó là thế đấy,” Lewis chỉnh anh.

“Không mà,” Beck nói. “Tôi biết mình không được bay mà không dây buộc, nhưng không có dây buộc tôi có thể đi tuốt ra ngoài…”

“Đó không phải là một lựa chon.” Lewis nói.

“Nhưng chúng ta có thể nhân đôi thậm chí nhân bao phạm vi giao điểm an toàn…”

“Chúng ta đã bàn xong việc này.” Lewis lạnh lùng nói.

“Vâng, Chỉ huy.”

 

Nhật trình: Sol 526

Chẳng có bao nhiêu người có thể vỗ ngực nói ta đã phá hoại một con tàu không gian trị giá ba triệu đô. Nhưng tôi lại là một trong số đó.

Bữa giờ tôi đã tháo ra hết mấy bộ phận quan trọng trên dưới trái phải của MAV. Thật là hay khi biết tôi sẽ phóng vút vào quỹ mà và chẳng có mấy hệ thống dự phòng vướng víu vô cùng.

Việc đầu tiên tôi làm là tháo hết mấy thứ lặt vặt. Rồi sau đó là những thứ tôi có thể tháo rời. Chẳng hạn như mấy ghế ngồi của phi hành đoàn, vài hệ thống khẩn cấp, và các bảng điều khiển.

Tôi chẳng cần phải tùy cơ ứng biến. Tôi làm thao sát mấy hướng dẫn NASA gửi, họ đã làm sẵn hết để mọi chuyện càng dễ dàng càng tốt. Đôi khi tôi nhớ những ngày mình có thể tự quyết định tất cả. Rồi tôi giũ sạch những cảm xúc đó đi và tự nhủ rằng mình tốt hơn cả trăm tỷ lần khi có cả đống thiên tài quyết định mình phải làm gì thay vì vừa làm vừa tự sáng chế bậy bạ.

Cứ làm việc được một thời gian là tôi mặc áo du hành, chui vào cửa khóa khí mang theo tất cả mấy đồ lạc xoong có thể nhét vừa vào cửa, và tống chúng ra ngoài. Khu vực xung quanh MAV giờ trông như sân khấu của chương trình Sanford and Son.

Tôi vừa được biết thêm về Sanford and Son từ bộ sưu tầm của Lewis. Thiệt tình, cái người phụ nữ này cần phải đi gặp bác sĩ cho vấn đề về thời 70 của cô ấy đi.

 

 

Nhật trình: Sol 529

Tôi đang chuyển hóa nước tiểu của mình thành nhiên liệu cho tên lửa. Dễ dàng hơn bạn tưởng nhé.

Phần lớn thành phần của nước tiểu là nước. Tách hydrô và ôxy chỉ đòi hỏi vài cực điện và chút dòng điện. Vấn đề nằm ở chỗ thu thập hydrô. Tôi không có thiết bị nào để rút hydrô ra khỏi không khí. Chính máy điều hòa cũng không biết làm thế nào. Lần cuối cùng tôi phải rút hydrô ra từ không khí (là khi tôi biến căn Hab thành trái bom đó), tôi đã đốt nó để chuyển hóa nó thành nước. Rõ ràng là việc này phản tác dụng.

Nhưng NASA đã tính toán chu đáo mọi thứ và đưa quy trình cho tôi. Đầu tiên, tôi tháo kết nối giữa rover và toa tải. Rồi, trong khi mặc áo EVA, tôi giảm áp toa tải và đong đầy khí ôxy nguyên chất vào đó cho đến khi đạt mức ¼ atm. Rồi tôi mở cái thùng nhựa chứa đầy nước tiểu và đặt vài cực điện vào đó. Đó là lý do tôi cần chút khí quyển. Nếu không có nó, nước tiểu sẽ sôi ngay lập tức và tôi sẽ được tận hưởng bầu không khí “trong lành”.

Thiết bị điện phân tách hydrô và ôxy. Sau một thời gian, nó khử nước tiểu bằng cách rút nước ra khỏi đó và để lại một chất bùn quánh rất gớm ghiếc. Giờ thì toa tải có đầy ôxy và hydrô. Thật sự là ngu hiểm lắm đó nha.

Rồi tôi mở máy điều hòa không khí. Nó còn không nhận biết hydrô là thằng nào, nhưng nó biết làm cách nào để rút ôxy ra khỏi đó. Tôi phá hết mấy nút giữ an toàn và cho nó rút 100 % ôxy ra khỏi không khí. Sau khi nó làm xong nhiệm vụ, bên trong chỉ còn lại hydrô. Đó là lý do vì sao tôi bắt đầu quy trình bằng một bầu không khí chỉ có ôxy nguyên chất, để máy điều hòa có thể tách chúng ra.

Rồi tôi mở cửa khóa khí bên trong để cho nó rút chân không toa tải. Nó bơm tất cả không khí vào thùng trữ của cửa khóa khí. Và thế là ta có một thùng hydrô nguyên chất.

Bước cuối cùng là đem thùng trữ của cửa khóa khí đến MAV và chuyển tất cả dung lượng bên trong vào thùng trữ hydrô của MAV. Tôi đã nói điều này nhiều lần rồi nhưng: Hoan hô những hệ thống van được làm theo chuẩn!

Sau khi tôi cung cấp hydrô cho nó, tôi bật máy nhiên liệu lên và cho nó bắt đầu tạo thêm lượng nhiên liệu tôi sẽ cần.

Tôi phải làm thêm quy trình này vài lần nữa khi gần đến ngày phóng. Tôi có thể làm hết một lần, nhưng NASA không muốn tôi còn lại quá ít nước cho đến khi gần tới ngày khởi hành. Họ thà để tôi điện phân nước tiểu từ từ vì tôi đã “dùng” nước ấy rồi.

Nếu mà sống sót qua kiếp nạn này, tôi sẽ nói với mọi người rằng tôi tiểu ra nhiên liệu bắn mình vào quỹ đạo.

 

[19:22] JOHANSSEN: Chào, Mark.
[19:23] MAV: Johanssen!? Ôi trời đất quỷ thần ơi! Cuối cùng họ cũng để mọi người trực tiếp nói chuyện với tôi hả?
[19:24] JOHANSSEN: Đúng thế, NASA đã OK cho bọn này trực tiếp liên lạc cách đây một tiếng. Chúng ta chỉ còn cách nhau 35-giây ánh sáng, nên chúng ta có thể nói chuyện gần như thời gian thực rồi. Tôi vừa lắp đặt xong hệ thống và đang thử nghiệm nó.
[19:24] MAV: Sao mãi đến giờ họ mới cho chúng ta liên lạc?
[19:25] JOHANSSEN: Đội tâm lý lo lắng sẽ có sự mâu thuẫn vì tính cách.
[19:25] MAV: Cái gì? Chỉ vì tụi bây bỏ anh mày lại trên cái hành tinh khỉ không thèm ho cò không thèm gáy này với cơ hội sống sót là zero à?
[19:26] JOHANSSEN: Buồn cười. Đừng có mà đùa thế với Lewis nhé.
[19:27] MAV: Đã rõ. À này… cảm ơn mọi người đã quay lại cứu tôi.
[19:28] JOHANSSEN: Đó là điều nhỏ nhặt nhất bọn này có thể làm. Tân trang MAV đến đâu rồi?
[19:28] MAV: Đến giờ vẫn tốt thôi. NASA đã bỏ nhiều công sức vào những quy trình này. Chúng đều hoạt động tốt cả. Không thể nói đó là những quy trình dễ dàng. Ba ngày trời rồi tôi chỉ dành để tháo bảng Vỏ tàu 19 và cửa sổ phía trước. Ngay cả trong trọng lực sao Hỏa chúng cũng nặng bà cố nội nó luôn ấy.
[19:29] JOHANSSEN: Khi bọn em đón anh lên, em sẽ có một cuộc mây mưa hoang dại nồng nhiệt với anh. Anh chuẩn bị thân thể mình đi nhé.
[19:29] JOHANSSEN: Này không phải tôi đánh máy đâu! Martinez đó! Tôi chỉ bước khỏi bàn phím chưa đến 10 giây nữa!
[19:29] MAV: Thật sự tôi nhớ mọi người lắm.

 

Nhật trình: Sol 543

Tôi ừm… làm xong?

Tôi nghĩ mình đà làm xong.

Tôi làm hết mọi thứ trong danh sách. MAV đã sẵn sàng để bay. Và chỉ trong vòng 6 sol, đó là điều tôi sẽ làm. Hy vọng thế.

Có lẽ nó sẽ không bay lên một phân nào. Xét cho cùng tôi đã tháo rời một động cơ. Có thể tôi phá hỏng vài thứ trong quá trình làm việc. Và chẳng cách nào thử giai đoạn bay lên cả. Một khi bạn chạy chương trình, là nó bay.

Tuy nhiên mọi thứ khác sẽ được thử nghiệm từ hôm nay cho đến ngày bay. Một vài thứ được tôi tự thử, vài thứ khác do NASA làm từ xa. Họ không cho tôi biết sác xuất thất bại, tôi đoán là nó cao nhất trong lịch sử luôn. Yuri Gagarin còn có một con tàu đáng tin cậy và an toàn hơn của tôi.

Và tàu Xô viết là mấy cái bẫy chết người ấy nha.

 

***

 

“Được rồi,” Lewis nói, “ngày mai là ngày trọng đại đấy.”

Phi hành đoàn lơ lững trong khu Rec. Họ đã cho con tàu ngưng xoay vòng để chuẩn bị cho hoạt động sắp tới.

“Tôi đã sẵn sàng,” Martinez nói. “Johanssen đã cho tôi nếm mọi thử thách. Tôi đã tập hết mọi tình huống trong quỹ đạo.”

“Mọi thứ ngoại trừ những trường hợp hỏng hóc chết người,” Johanssen đính chính.

“À vâng,” Martinez nói. “Mô phỏng một vụ cất cánh bị nổ tung lúc bay lên thì chẳng ích gì. Chúng ta có làm gì được đâu.”

“Vogel,” Lewis nói. “Đường bay của chúng ta thế nào?”

“Hoàn hảo,” Vogel nói. “Chúng ta trong vòng một mét của đường bay dự tính và 2 cm/s của vận tốc dự tính.”

“Tốt,” cô nói. “Beck, anh thì sao?”

“Mọi thứ được sắp xếp hết rồi, Chỉ huy,” Beck nói. “Tôi kết nối tất cả những dây buộc mình có thể tìm thấy và quấn chúng lại trong cửa Airlock 2. Áo du hành và MMU của tôi đều được chuẩn bị sẵn sàng hết.”

“Ok,” Lewis nói. “Kế hoạch cho cuộc chiến ngày mai đã rõ ràng. Martinez sẽ lái MAV, Johassen sẽ điều khiển hệ thống bay lên. Beck và Vogel, tôi muốn hai anh ở trong cửa Airlock 2 và mở cửa ngoài khi MAV còn chưa cất cánh. Các anh sẽ đợi 52 phút, nhưng tôi không muốn có rủi ro trục trặc kỹ thuật vì với cửa khóa khí hay bộ áo của hai anh. Một khi chúng ta đi vào giao điểm, nhiệm vụ của Beck là ra đón Watney.”

“Có thể anh ấy sẽ trong tình trạng xấu khi tôi đón anh ấy,” Beck nói . “Chiếc MAV trần trụi sẽ lên đến 12 g trong quá trình cất cánh. Có thể anh ấy sẽ bất tỉnh và thậm chí có thể bị xuất huyết nội nữa.”

“May có anh là bác gì đây,” Lewis nói. “Vogel, nếu mọi việc theo kế hoạch, anh dùng dây buộc kéo Beck và Watney vào trong tàu. Nếu có chuyện không hay, anh là dự bị cho Beck.”

“Ja,” Vogel nói.

“Tôi ước gì chúng ta có thể làm nhiều hơn vào thời điểm này,” Lewis nói. “Nhưng chúng ta chỉ còn mỗi việc chờ đợi. Thời khóa biểu của mọi người đều trống hết. Tất cả các thí nghiệm khoa học đều được hoãn. Nếu được thì hãy ngủ, nếu không thì chạy chẩn đoán cho thiết bị của mình.”

“Chúng ta sẽ đón cậu ấy về mà, Chỉ huy,” Martinez nói. “24 giờ sau tính từ thời điểm này, Mark Watney sẽ ở ngay trong khoang này.”

“Hy vọng là vậy, Thiếu tá à.” Lewis nói. “Giải tán.”

 

***

 

“Kiểm tra lần cuối của ca trực này đã hoàn tất,” Mitch nói vào điện đàm của mình. “Người Ghi giờ.”

“Được, Phi vụ,” Người Ghi giờ nói.

“Thời gian đến giờ phóng MAV?”

“16 giờ, 9 phút, 40 giây… ghi chú.”

“Đã rõ. Tất cả các trạm: Thay đổi ca trực cho Giám đốc Phi vụ.” Ông tháo điện đàm ra và dụi mắt mình.

Brendan Hutch đón điện đàm từ tay ông và đeo lên. “Tất cả các trạm: Giám đốc Phi vụ hiện tại là Brendan Hutch.”

“Gọi điện cho tôi nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra,” Mitch nói. “Nếu không có gì, mai gặp nhé.”

“Về ngủ chút đi sếp,” Brendan nói.

Venkat nhìn từ buồng quan sát. “Sao lại hỏi Người Ghi giờ?” Ông lầm bầm. “Nó nằm chình ình to tổ bố trên màn hình trung tâm kìa.”

“Anh ấy lo lắng,” Annie nói. “Có lẽ anh không nhận ra, nhưng đó chính là bộ dạng của Mitch Henderson khi anh ta lo lắng. Anh ta kiểm tra và kiểm tra đi và kiểm tra lại tất cả mọi thứ.”

“Cũng hợp lý,” Venkat nói.

“Nhân tiện nói luôn đây, ai cũng cắm lều ngoài sân cỏ,”Annie nói. “Phóng viên từ khắp thế giới. Phòng họp báo của chúng ta thậm chí không đủ chỗ chứa.”

“Đám truyền thông này thích kịch tính lắm,” ông thở dài. “Ngày mai mọi chuyện sẽ qua thôi, cách này hay cách khác.”

“Vai trò của chúng ta trong việc này là gì?” Annie hỏi. “Nếu có sự cố, Điều hành Phi vụ có thể làm gì?”

“Không gì cả,” Venkat nói. “Không một thứ mẹ gì cả.”

“Không gì ư?”

“Mọi chuyện xảy ra cách chúng ta 12 phút ánh sáng. Điều đó có nghĩa là phải mất 24 phút họ mới nhận được hồi âm của chúng ta nếu họ hỏi điều gì. Cả vụ phóng chỉ mất 12 phút. Họ đơn thân độc mã vụ này.”

“Ồ,” Annie nói. “Vậy chúng ta chỉ là kẻ đứng nhìn thôi sao?”

“Đúng thế,” Venkat nói. “Thảm, đúng không nào?”

 

Nhật trình: Sol 549

Nếu tôi nói mình không sợ đến xón quần thì tôi đang nói dối thôi. Trong vòng 4 giờ, tôi sẽ cưỡi một vụ nổ khủng khiếp để lao vào quỹ đạo. Đây là việc tôi từng làm vài lần rồi, nhưng chưa bao giờ trong một mớ máy móc lộn xộn cẩu thả như thế này.

Hiện giờ, tôi đang ngồi bên trong MAV. Tôi mặc áo du hành vì trước mũi tàu có một cái lỗ to thật to ở vị trí vốn dành cho cửa sổ và vỏ tàu. Tôi đang “chờ hướng dẫn phóng tàu.” Thậy ra, tôi chỉ chờ vụ phóng. Tôi chẳng có nhiệm vụ gì cả. Tôi chỉ ngồi đây trên ghế tăng tốc và hy vọng những điều tốt đẹp nhất.

Tôi qua, tôi ăn phần ăn cuối cùng của mình. Đó là phần ăn ngon đầu tiên trong vòng mấy tuần nay. Tôi bỏ lại 41 củ khoai. Tôi gần kề tình trạng chết đói đến thế đấy.

Tôi cẩn thận thu thập mẩu vật trong cả cuộc hành trình. Nhưng tôi không thể đem theo thứ gì. Nên tôi bỏ chúng vào một thùng chứa cách đây vài trăm mét. Có lẽ một ngày nào đó họ sẽ gửi tàu lên thu nhặt chúng. Cho nên sẵn tôi để lại chỗ nào dễ thu nhặt hơn.

Thế thôi. Chẳng còn gì sau chuyện này. Chẳng có quy trình hủy. Tại sao phải tạo ra nó chi? Chúng tôi chẳng thể trì hoãn vụ phóng. Hermes không thể dừng lại để chờ đợi. Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng phóng theo đúng kế hoạch.

Tôi đối diện với khả năng thật sự rằng hôm nay tôi sẽ chết. Tôi không thể cười xòa nói mình thích điều đó. Cũng chẳng phải tồi tệ lắm nếu MAV nổ tung. Tôi sẽ không biết chuyện gì xảy đến với mình.

Nếu tôi lỡ mất giao điểm hẹn tôi sẽ bay lơ lửng trong không gian đến khi hết ôxy. Tôi có kế hoạch phòng bất ngờ cho chuyện đó. Tôi sẽ hạ hỗn hợp ôxy xuống còn zero và hít thở nitơ nguyên chất cho đến khi mình chết ngạt. Cảm giác không tệ đâu. Phổi không có khả năng cảm nhận sự thiếu ôxy. Tôi sẽ chi thấy mệt, ngủ vùi, rồi chết.

Tôi vẫn không thể tin thế là thật sự hết rồi. Tôi thật sự ra đi. Sa mạc khô cằn này đã là nhà của tôi trong mội năm rưỡi qua. Tôi tìm ra cách sống sót, ít nhất trong một khoảng thời gian dài, và tôi quen dần với cách sao Hỏa quay. Cuộc chiến sinh tồn của tôi trở thành chuyện thường ngày. Thức dậy buổi sáng, ăn sáng, chăm sóc nông trại, ăn trưa, sửa đồ hư hỏng, trả lời email, xem TV, ăn tối, đi ngủ. Cuộc đời của chàng nông dân thời hiện đại.

Rồi tôi thành chàng lái xe tải, đi đường dài băng qua thế giới này. Cuối cùng thì, một chàng nhân viên xây dựng, sửa sang con tàu bằng phương cách chưa ai từng xem xét tới. Tôi đã làm mọi thứ ở đây, vì tôi là thằng duy nhất sống ở đây.

Tôi đã ăn củ khoai sao Hỏa cuối cùng. Tôi đã ngủ trong con rover lần cuối. Tôi đã làm chuyến EVA trên bề mặt một lần sau chót. Tôi rời khỏi sao Hỏa, bằng cách này hay cách khác, vào ngày hôm nay.

Đã đến lúc con mẹ nó rồi đấy.

 


Photo Credit: Hermes by francisdrakex.deviantart.com

 

« »
%d bloggers like this: