Sarah, giản dị và cao lớn
Tác giả: Patricia MacLachlan
Người dịch: Du Ca
Hiệu đính: conruoinho
(Đạt Huân chương Newbery 1986)
Bản dịch chưa có sự đồng ý của tác giả
Mục lục
01 – 02 – 03 – 04 – 05 – 06 – 07 – 08 – 09
Chương 4
Lũ chó kết cô Sarah trước tiên nhất. Con Lottie thì cuộn tròn ngủ bên cạnh giường cô ấy, còn con Nick thì gác cái mỏm nó lên các bìa sách vào buổi sáng, để khi cô Sarah thức dậy thì nó sẽ biết ngay tắp lự.
Không ai biết con Seal đã ngủ ở đâu. Con Seal là một tên lang thang vô tội vạ.
Bộ sưu tập vỏ sò của cô Sarah đặt trên bậu cửa sổ. “Con sò điệp đấy,” cô bảo với chúng tôi, lấy lên từng con sò một, “đây là con trai biển nè, con này thì là con hàu, còn con này là con trai móng tay nè. Và còn vỏ con ốc xà cừ nữa. Nếu cháu đặt nó lên tai cháu thì cháu có thể nghe được tiếng sóng biển đó.” Cô nói rồi đặt nó lên tai Caleb và tôi. Ba cũng lắng tai nghe nữa. Sau đó cô Sarah nghe lại một lần nữa, trông cô hơi buồn và ánh nhìn xa xăm khi Caleb tựa vào vai tôi.
“Ít ra thì cô Sarah cũng có thể nghe được tiếng sóng vỗ,” nó thì thầm.
Ba hoàn toàn yên lặng và rụt rè khi tiếp xúc với cô Sarah, tôi cũng thế. Chỉ có Caleb là nói chuyện với cô suốt từ sáng tới tối mà không chán.
“Cô định đi đâu vậy?” nó hỏi. “và làm gì ạ?”
“Cô muốn hái vài bông hoa,” Sarah đáp. “Cô sẽ treo chúng ngược đầu và phơi khô để giữ màu sắc của chúng lại. Sau đó chúng ta có thể có hoa cho cả mùa đông dài đằng đẵng.”
“Cháu cũng làm với ạ!” Caleb reo lên. “Sarah cô ấy nói tới mùa đông,” nó nói với tôi. “Thế có nghĩa là cô ấy sẽ ở lại rồi chị ơi.”
Thế là chúng tôi cùng nhau đi hái hoa, hoa cọ vẽ và cỏ ba lá cùng với hoa violet thảo nguyên nữa. Các cây hoa hồng dại đã nhú nụ lên leo theo hàng rào trong bãi ngựa.
“Các bông hồng sẽ chóng ra hoa vào mùa hè này thôi,” tôi kể với cô Sarah. Tôi mong đợi xem liệu cô có biết điều tôi đang nghĩ tới hay không. Mùa hè là mùa đám cưới. Có lẽ vậy. Sarah và ba sẽ cưới nhau.
Chúng tôi treo các bông hoa thành từng bó nhỏ trên trần nhà. “Cô chưa bao giờ thấy chuyện này trước đây,” Sarah nói. “Nó gọi là gì vậy cháu?”
“Dạ là mũ cô dâu ạ,” tôi bảo với cô ấy.
Caleb mỉm cười với cái tên đó.
“Tụi cô không có thứ này khi ở gần biển,” cô nói. “Tụi cô có cây cúc vàng mọc ở bờ biển và cây cúc tây dại cùng cây lưỡi chó.”
“Cây lưỡi chó à!” Caleb reo lên. Nó liền hát một bài.
“Lưỡi chó mọc khắp nơi,
Lưỡi chó mọc trên đất.
Lưỡi chó lớn rất nhanh,
Lưỡi chó thơm nứt mũi.”
Sarah và ba tôi bật cười thích thú, còn lũ chó thì nhấc cái đầu chúng lên và nện chân chúng xuống nền nhà. Con Seal thì ngồi trên cái ghế trong bếp và quan sát chúng tôi bằng cặp mắt màu vàng.
Chúng tôi ăn món thịt hầm do cô Sarah ninh, ánh hoàng hôn xuyên qua ô cửa sổ. Ba thì trổ tài nướng bánh mì trên lò sưởi ấm áp.
“Thịt hầm ngon tuyệt,” ba nói.
“Ayuh.” Sarah gật đầu. “Bánh mì cũng vậy.”
“‘Ayuh’ nghĩa là gì vậy cô?” Caleb hỏi liền.
“Ở Maine nó có nghĩa là “Vâng” đó cháu,” Sarah nói. “Cháu có muốn ăn thêm thịt hầm không?”
“Ayuh,” Caleb bắt chước liền.
“Ayuh,” ba tôi cũng bắt chước nốt.
Sau bữa tối ngon miệng cô Sarah kể cho chúng tôi nghe về chú William. “Anh ấy có một chiếc thuyền màu nâu trắng gọi là Kittiwake.”
Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. “Anh ấy đã tìm được một con mòng biển nhỏ xa bờ ở chỗ anh ấy câu cá. Tụi cô sống gần với ba bác gái. Họ thường mặc váy lụa và đi chân trần. Các cháu sẽ thích họ cho xem.”
“Ayuh,” Caleb đáp.
“Chú William có giống cô không ạ?” tôi hỏi.
“Có chứ,” Sarah nói. “Anh ấy giản dị và cao.”
Lúc chạng vạng tối cô Sarah cắt tóc cho Caleb trước bậc thang, gom mớ tóc quăn của nó lại và quăng qua hàng rào và trên mặt đất. Con Seal thì đùa giỡn với vài cọng tóc quanh hiên nhà còn lũ chó thì đứng xem trò.
“Chi vậy cô?” Caleb hỏi.
“Cho lũ chim chóc,” cô Sarah nói. “Chúng sẽ dùng để xây tổ cho chúng. Sau này chúng ta có thể chờ xem những cái tổ quăn tít thò lò.”
“Sarah cô ấy nói ‘sau này’,” Caleb thì thầm với tôi khi chúng tôi đang chải tóc cho nó. “Cô Sarah sẽ ở lại với chúng ta đó.”
Cô Sarah cũng cắt tóc cho ba nữa. Không ai thấy việc đó cả, nhưng tôi đã thấy ông bên cạnh chuồng gia súc, ném các lọn tóc vào trong gió cho lũ chim chóc.
Cô Sarah chải tóc cho tôi và cô buộc nó cao lên sau đầu bằng dây ruy-băng hồng nhung mà cô ấy mang theo từ Maine. Cô cũng chải mái tóc dài cô ấy và buộc gọn ra sau đầu, rồi chúng tôi đứng bên cạnh nhau nhìn vào trong gương. Tôi trông cao hơn, đẹp và ốm như cô Sarah. Và với mái tóc đã được cột ra sau tôi trông như là con gái cô vậy. Con gái của Sarah.
Tiếp theo là đến giờ ca hát nào.
Sarah hát cho chúng tôi nghe bài hát mà chúng tôi chưa từng được nghe khi cùng ngồi trên hiên nhà, bọn côn trùng thì kêu râm ran trong đêm tối, trong khi lũ bò thì nhai lại cỏ rạo rạo. Bản hợp ca này có tên là “Mùa hè đang đến kìa,” (Sumer is icumen in) và cô ấy dạy chúng tôi hát bài ấy, ngay cả ba tôi cũng hát như thể ông chưa bao giờ ngừng hát vậy.
“Mùa hè đang đến
Hót vang chim cúc cu!”
“Mù ha là gì ạ?” Caleb hỏi. Nó nói từ “mù ha,” như cách Sarah đã nói với nó.
“Là mùa hè,” ba và Sarah cùng nói. Caleb và tôi nhìn nhau. Mùa hè đang tới rồi.
“Ngày mai,” Sarah nói, “Cô muốn đi xem bầy cừu. Cháu biết đấy, cô chưa bao giờ được chạm vào chúng.”
“Chưa bao giờ á?” Caleb nhảy dựng lên.
“Hê hê chưa bao giờ,” Sarah nói. Cô ấy mỉm cười và ngả mình ra ghế. “Nhưng mà cô đã chạm vào tụi hải cẩu nè. Hải cẩu thực sự nhá. Chúng rất mát và trơn và chúng lướt trong nước như cá í. Tụi nó còn có thể khóc và hát nữa nè. Và đôi khi chúng còn sủa, y như tụi cún í.”
Sarah bắt chước sủa như một con hải cẩu. Và từ chuồng gia súc tụi con Lottie và Nick chạy tới nhảy bổ vào Sarah và le lưỡi liếm khắp mặt cô ấy khiến cho cô ấy cười ngất. Sarah vuốt ve và cào nhẹ vào tai chúng khiến tụi nó yên lặng trở lại.
“Ôi ước chi cháu có thể chạm vào một con hải cẩu ngay bây giờ,” Caleb nói, giọng của nó nhẹ nhàng trong đêm tối.
“Cô cũng vậy,” Sarah nói. Cô thở dài, rồi bắt đầu hát bài hát mùa hè lần nữa. Xa xa trên cánh đồng, đàn sáo cũng cất tiếng hót theo Sarah.
Photo: Book stock photo (audible)