Sarah, giản dị và cao lớn
Tác giả: Patricia MacLachlan
Người dịch: Du Ca
Hiệu đính: conruoinho
(Đạt Huy chương Newbery 1986)
Bản dịch chưa có sự đồng ý của tác giả
***
Giới thiệu tác giả:
Patricia MacLachlan là tác giả của nhiều cuốn sách dành cho mọi lứa tuổi, bao gồm Sarah, giản dị và cao lớn, đạt Huy chương vàng Newbery năm 1986. Bà nói, “Khi còn nhỏ, mẹ tôi đã dẫn tôi từ thư viện về nhà khi tôi vừa đi vừa đọc, tay bà đặt trên cổ tôi, dẫn tôi băng qua đường và lên xuống các lề đường. Đến khi tôi về nhà, tôi đã đọc xong cuốn sách, và đã đến lúc phải trở lại thư viện để mượn thêm nữa.”
Bà MacLachlan luôn luôn đặc biệt quan tâm đến các gia đình và lũ trẻ, vì mối quan tâm này đã kết nối sự tận tâm của bà với văn học thiếu nhi, “đã đưa ra quyết định tiên quyết để viết truyện dành cho thiếu nhi – điều mà tôi luôn muốn làm.” Cuốn sách đầu tay của bà ấy, The sick day, được xuất bản năm 1979.
“Có một niềm vui… khi tạo ra sự thấu hiểu ngạc nhiên cho một nhân vật. Các nhân vật trong sách của tôi, trở thành những bạn thân và cho đến các thành viên xa gần trong gia đình, hay các anh chị mà tôi chưa từngcó. Sách ảnh hưởng tới cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống của bọn trẻ, vì bọn trẻ có một niềm tin thuần túy vào sự thật của câu chuyện, đó chính là món quà tối hậu dành cho tác giả. Món quà của chung đó đó – từ tác giả tới độc giả và ngược lại.”
Patricia MacLachlan sống ở miền đông Massachusetts và vẫn tiếp tục sáng tác. Các tựa sách khác của cô ấy gồm Arthur, for the very first time; Unclaimed treasures; và Facts and fiction of Minna Pratt, tất cả đều dành cho dòng Văn học thiếu nhi; Cassie Binegar; Seven kissed in a row; và gần đây nhất, Skylark, cùng với Sarah yêu dấu của chúng tôi. Cả Skylark và Sarah, giản dị và cao lớn đều là những tác phẩm nổi tiếng trong chương trình tivi Hallmark Hall of Fame của Glenn Close.
Mục lục
01 – 02 – 03 – 04 – 05 – 06 – 07 – 08 – 09
Chương 1
“Mẹ hát mỗi ngày á?” Caleb hỏi. “Hát-mỗi-ngày?” thằng bé ngồi gần lò sưởi, tựa cẳm lên tay mình. Trời đã nhá nhem tối, và lũ chó thì nằm bên cạnh nó trên các phiến đá lát lò sưởi ấm áp.
“Hát-mỗi-ngày,” tôi đã nói với nó lần thứ hai trong tuần này. Tháng trước thì khoảng hai mươi lần. Năm nay thì khoảng hàng trăm lần! Và vài năm trước nữa?
“Và ba cũng hát chứ!”
“Ừ. Ba cũng hát. Đừng có đến gần quá, Caleb. Em sẽ bị bỏng lên đó.”
Nó đẩy lùi cái ghế lại. Nó phát ra âm thanh có vẻ rỗng tuếch rời rạc trên các lát đá lò sưởi, và lũ chó thì cựa quậy. Con Lottie, nhỏ con và lông màu đen, ve vẩy cái đuôi và ngẩng đầu lên. Còn Nick thì vẫn tiếp tục ngủ.
Tôi nhào bột bánh mì trên kệ bếp lát đá cẩm thạch.
“Ừm, ba thì không còn hát nữa,” Caleb nói một cách nhẹ nhàng. Khúc gỗ bị gãy một khúc và kêu lách tách trong lò sưởi. Nó nhìn lên phía tôi.
“Lúc mới sinh em trông như thế nào hở chị?”
“Em trần như nhộng í,” tôi kể với nó.
“Đương nhiên em biết,” nó nói.
“Em trông như thế này nè.” Tôi giơ nắm bột bánh mì đã được vo tròn lên cho nó xem.
“Em có tóc nhá,” Caleb nói một cách nghiêm túc.
“Quá ít để nhắc đến nó,” tôi nói.
“Và mẹ đặt tên em là Caleb,” nó tiếp tục, bổ sung vào câu chuyện xưa của gia đình.
“Chị sẽ gọi em là Rắc Rối,” tôi nói, khiến Caleb bật cười.
“Và mẹ đã bế em trong cái khăn màu vàng tới cho chị và nói…” nó dừng lại đợi tôi hoàn tất câu chuyện. “Và mẹ đã nói gì chị…?”
Tôi thở dài nói. “Và mẹ đã nói là, “Thằng bé xinh quá Anna nhỉ.”
“Thì em đúng thế mà,” Caleb kết luận.
Caleb vẫn tiếp tục nghĩ về câu chuyện khi nó đã kết thúc, còn tôi thì đã không kể cho nó nghe suy nghĩ thực sự là gì. Nó nhăn nhúm và không ưa nhìn, nó khóc to vang cả nhà và cái mùi kinh khiếp đi được. Nhưng những điều này không phải là điều tệ hại nhất của nó. Mẹ đã mất vào ngay sáng hôm sau. Đó mới chính là điều tội tệ nhất về Caleb. “Thằng bé xinh quá Anna nhỉ!” Đó là những lời cuối cùng mà mẹ đã nói với tôi. Tôi lên giường và nghĩ nó trông thật bất hạnh như thế nào. Và tôi đã quên nói Chúc ngủ ngon với nó luôn. Tôi lau tay mình lên tạp dề và đi tới bên cửa sổ. Bên ngoài, đồng cỏ trải dài tới tận chân trời. Mặc dù sắp hết mùa đông, nhưng có nhiều khoảnh đất phủ đầy tuyết và băng khắp mọi nơi. Tôi nhìn ra con đường đất trải dài băng qua vùng đồng bằng, nhớ lại buổi sáng mà mẹ tôi mất, ác nghiệt và nắng đẹp. Họ đến đặt bà lên một chiếc xe ngựa để đem đi chôn. Rồi sau đó các cậu và thím và bác đến thăm để làm ấm căn nhà chúng tôi. Nhưng họ đã không thể. Từ từ, họ rời đi, từng người một. Và sau đó là những ngày dài lê thê và u ám như những ngày đông giá buốt, mặc dù khi ấy chưa tới mùa đông. Và ba tôi đã không còn ca hát nữa.
Thằng bé xinh quá Anna nhỉ?
Không đâu, mẹ à.
Thật khó để xem như Caleb xinh đẹp. Tôi mất cả ba ngày để có thể yêu nó, ngồi trong ghế bên cạnh lò sưởi, ba tôi thì rửa bát đĩa sau bữa ăn tối, bàn tay bé nhỏ của Caleb thì chạm vào ngực tôi. Và nở nụ cười. Đó chính là nụ cười, tôi biết thế.
“Chị có thể nhớ các bài hát của mẹ chứ!” Caleb hỏi.
“Các bài hát của mẹ ư?”
Tôi quay lưng về phía cửa sổ. “Không em. Chị chỉ nhớ rằng mẹ hay hát về hoa và chim. Đôi khi về mặt trăng vào ban đêm.”
Caleb vươn tay ra chạm vào đầu con Lottie. “Có lẽ vậy,” nó nói, giọng nhỏ xíu, “nếu chị nhớ các bài hát, thì em cũng có thể nhớ mẹ.”
Tôi ứa nước mắt. Rồi cửa bật mở và ba tôi bước vào mang theo cơn gió, còn tôi thì bước tới khuấy món thịt hầm. Ba ôm tôi lại và cúi đầu ngửi tóc tôi.
“Mùi xà phòng dễ thương quá, món thịt hầm đó nữa,” ông nói.
Tôi bật cười. “Đó là tóc của con nhá.”
Caleb bước tới và ôm choàng lấy cổ của ba và treo mình lủng lẳng ở đó còn ông thì lắc nó đung đưa qua lại, lũ chó thì ngồi bật dậy.
“Trong thị trấn thì lạnh đấy,” ba nói. “Và Jack thì đang khó ở.” Jack là con ngựa mà ba tôi nuôi từ khi còn là một con ngựa non. “Thằng oắt con,” ba tôi lẩm bẩm, mỉm cười trìu mến, vì dù Jack có làm gì thì ba tôi vẫn rất thương nó.
Tôi múc món thịt hầm ra và bật đèn dầu lên sau đó chúng tôi cùng ăn còn lũ chó xúm lại dưới cái bàn, hi vọng tớp được miếng đồ ăn rơi xuống hay được quăng cho.
Ba tôi sẽ không kể với chúng tôi về Sarah vào đêm đó nếu Caleb không hỏi ông câu hỏi ấy.
Sau khi rửa xong đống bát đĩa, ba tôi đổ đầy tro vào chiếc thùng thiếc, Caleb nói lớn. Đó không phải là một câu hỏi, thực sự là vậy.
“Ba đã không hát nữa,” nó nói. Nó nói một cách gắt gỏng. Nó không định nói như thế, nhưng vì nó đã nghĩ về điều đó quá lâu rồi. “Tại sao chứ?” nó hỏi lại nhẹ nhàng hơn.
Từ từ, ba tôi đứng thẳng lên. Một sự im lặng kéo dài, một con trong lũ chó ngạc nhiên nhìn lên. “Ba đã quên các bài hát cũ rồi con,” ba nói một cách nhẹ nhàng. Ông ngồi xuống. “Nhưng có thể có một cách để ba nhớ lại chúng.” Ông nhìn lên chị em tôi.
“Cách nào ạ?” Caleb hỏi một cách hăm hở.
Ba ngả người ra ghế. “Ba đã đăng tin trên báo rồi. Nhờ giúp đỡ.”
“Ý ba là một quản gia đó hả ba?” tôi hỏi, thấy rất bất ngờ. Caleb và tôi nhìn nhau và cười phá lên, nhớ về Hilly, người quản gia trước đây của chúng tôi. Cô ấy tròn trịa và chậm lại mập mờ. Buổi tối cô ấy ngáy rõ to, như là tiếng ấm nước kêu, và để ngọn lửa trong lò sưởi tắt ngúm.
“Không phải,” ba nói một cách chậm rãi. “Không phải là người quản gia.” Ba ngưng lại. “là vợ.”
Caleb nhìn chằm chằm vào ba. “Vợ á? Ý ba là một người mẹ à?”
Con Nick nó dụi cái mặt của nó vào lòng ba và ba vuốt ve tai nó.
“Đúng vậy,” ba nói. “Như cô Maggie ấy.”
Chú Matthew, người hàng xóm ở phía nam chúng tôi, đã viết thư hỏi tìm một người vợ và mẹ cho bọn trẻ của ông ấy. Và cô Maggie đến từ Tennessee. Tóc cô ấy màu đỏ tía và cô ấy rất hay cười.
Ba với tay vào trong túi quần và mở ra một lá thư được viết trên tờ giấy trắng tinh. “Và ba đã nhận được câu trả lời của cô ấy.” Ba đọc cho chúng tôi nghe:
“Xin chào ông Jacob Witting,
“Tôi là Sarah Wheaten ở Maine như ông đã xem thư trước của tôi. Tôi xin phép trả lời cho mẫu tin của ông đây. Tôi chưa bao giờ kết hôn, dù tôi đã từng được cầu hôn. Tôi sống với một anh trai, William, anh ấy đã có vợ rồi. Vợ anh ấy-là-một người phụ nữ đầy nghị lực. “Tôi luôn thích sống ở biển, nhưng lúc này tôi cảm thấy mình cần rời đi. Và sự thật là, tôi có thể đi về tận hướng đông để thấy biển. Lựa chọn của tôi, như ông thấy đấy, đã được giới hạn. Điều này không có nghĩa là một lời xúc phạm. Tôi khỏe mạnh và tôi làm việc chăm chỉ và tôi sẵn sàng đi du lịch. Nhưng tôi không được dịu dàng cho lắm. Nếu ông vẫn chú ý đến những gì đã nói, tôi rất quan tâm đến bọn trẻ và về nơi ông đang sống. Và cả ông nữa.
Thân mến,
Sarah Elisabeth Wheaten
“P.S. Ông có ý kiến gì về lũ mèo không? Tôi có nuôi một con.”
Không ai nói gì khi ba đọc xong bức thư. Ông nhìn chăm chú lá thư trong bàn tay ông, tự đọc hết từ đầu tới cuối. Cuối cùng tôi lén lút quay đầu một tẹo nhìn Caleb. Nó mỉm cười. Tôi cũng mỉm cười với nó.
“Một điều ạ,” tôi nói trong căn phòng yên tĩnh.
“Điều gì con?” ba hỏi, nhìn lên tôi.
Tôi dang tay ôm lấy Caleb. “Liệu chúng con có thể nhờ cô ấy hát không ạ,” tôi nói.
Photo Credit: Book cover stock photo