The Guest Cat
Tác giả: Takashi Hiraide
Người dịch: conruoinho
Truyện dịch từ bản dịch tiếng Anh của Eric Selland.
Truyện dịch chưa được sự đồng ý của tác giả.
Mục Lục
1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9 – 10 – 11 – 12 – 13 – 14 – 15 – 16 – 17 – 18 – 19 – 20 – 21 – 22 – 23 – 24
2
Tiếng hí ha hí hửng hương vị chiến thắng của cậu bé chắc đã bị bà chủ trong nhà nghe thấy, vì buổi chiều hôm ấy chúng tôi nghe bà nói chuyện trước cửa nhà hàng xóm – “Nhà cô có muốn con mèo không?”
Tiếng giọng khô khan của người phụ nữ nhấn mạnh. “Thật sự quá sức của chúng tôi,” giọng nói tiếp tục, nói chuyện vu vơ những con mèo đã du nhập khắp khu nhà như thế nào, chúng xả phân trong khu vườn ra sao, chúng đi lại ồn ào trên nóc nhà, và đôi khi còn để lại những dấu chân dơ bẩn trong nhà.
Cô vợ nội trợ nhà bên nói giọng yên ắng nhẹ nhàng và thanh thoát. Người ta có thể nghĩ rằng cô đang trong thế phòng bị, nhưng sau khi kiên nhẫn lắng nghe bà lão tám mươi nài nỉ, hóa ra cô ấy có thể tự bảo vệ mình chẳng chút khó khăn. Có vẻ như cô có thể thấy cậu bé núp sau lưng bà mình và cho rằng cậu đang cầu nguyện cho chính cuộc đời đáng thương của mình. Và cuối cùng thì, dường như bà lão chính là người thua cuộc.
Tôi nhớ chỉ mới hai năm trước thôi khi chúng tôi kí hợp đồng mướn căn nhà trọ từ bà, có một điều khoản trong hợp đồng rằng không được có trẻ em và thú nuôi. Cả hai chúng tôi đều không muốn có con vào thời điểm ấy, mặc dù chúng tôi đã gần vượt tuổi ba lăm của mình. Và khi nói đến thứ chúng tôi gọi là thú nuôi, thì cả hai chúng tôi cũng chẳng đặc biệt thích mèo gì cả, và ý nghĩ nuôi chó cũng chưa từng vụt qua trong tư tưởng. Nên bạn có thể kết luận từ điều khoản tạm trú mà bà đưa ra, thì chúng tôi là những người thuê nhà rất phù hợp.
Vài người trong số đám bạn thân của tôi yêu mèo, và tôi phải thừa nhận rằng đã có lúc nhìn vào những tình cảm ngọt ngào tràn trề lan ra từ đôi mắt họ làm tôi cảm thấy kinh tởm. Họ dành hết tinh thần đầu óc cho đám mèo, dường như có khi họ hoàn toàn chẳng quan tâm đến chuyện ngượng ngùng xấu hổ nữa. Giờ khi tôi nghĩ lại, có lẽ không phải vì tôi không phải là người yêu mèo, mà đơn giản chỉ là tôi cảm thấy không kết nối được với những người yêu mèo. Nhưng hơn mọi thứ hết thảy, là tôi cơ bản chưng từng có kinh nghiệm có một con mèo bên cạnh.
Đã có một lần tôi từng nuôi chó khi còn bé. Tôi cảm thấy mối quan hệ của mình và con chó ấy đơn giản và thẳng thắn. Sức căng được cảm nhận qua sợi dây buộc chó giữa kẻ tuân phục và kẻ dẫn đầu thật khoan khoái.
Chắc tôi cũng bằng tuổi cậu nhóc hàng xóm khi tôi còn sống với gia đình mình căn nhà sắp thành dãy dành cho những nhân viên thành phố, mặc dù dãy nhà trông như khu chung cư ổ chuột hơn là những tòa nhà công cộng. Tôi chỉ mới có con chó không lâu lắm thì ai đó đến và lấy cắp nó đi. Rất có thể vào giữa trưa thứ Bảy hoặc Chủ nhật khi bố tôi để ý thấy con chó spitz được cột ngay cửa trước đã biến mắt. “Bọn bắt cóc chó…” bố gầm gừ, rồi lập tức cố tìm cách phá giải sự việc. Ông lao ra khỏi nhà, đem tôi theo, chúng tôi chạy vòng khắp bốn phương tám hướng tìm kiếm con spitz, nhưng chẳng thấy dấu vết của con chó và cả kẻ bắt cóc chó đâu cả.
Tôi nhớ như in cái cảm giác mình không nên hỏi bố thêm gì cả về chuyện vừa xảy ra, khi nhìn thấy phản ứng của bố khi con chó mất tích. Chị tôi khăng khăng rằng tôi đã khóc cả đêm, nhưng tôi hoàn toàn không có ký ức gì về chuyện đó.
Mặc dù bản thân tôi không đặc biệt thích mèo, vợ tôi có một khả năng bẩm sinh có thể kết nối với mọi sinh vật sống. Từ khi còn nhỏ, cô ấy hay cùng anh trai đi bắt tôm và tắc kè nước để nuôi nó trong hồ. Cô nói cô còn ấp đủ loại bướm – chúng bay khắp nơi trong phòng cô. Cô còn nuôi nhiều loại chim chóc, chim sẻ này, hoàng yến này, và cả gà nữa. Cô chăm sóc những con chim non rơi khỏi tổ và dưỡng thương cho những chú dơi đến khi chúng khỏe mạnh.
Ngay cả bây giờ khi mở TV đến một chương trình về thiên nhiên nào đó, cô vẫn có thể nói tên tất cả các loài động vật, ngay cả nhứng giống quý hiếm ở các quốc gia xa tít tắp. Trong trường hợp của vợ tôi, khi tôi nói đến chuyện không thích mèo thì đó là một chuyện hoàn toàn khác với thái độ của chồng cô, vì cả cuộc đời cô đã dành tình cảm cho nhiều loại động vật với một sự hứng thú ngang bằng nhau. Nói cách khác, cô ấy không có sự ưu ái dành cho chó hơn là mèo như tôi.
Khi con mèo ấy trở thành thú nuôi của nhà hàng xóm, nó thường xuất hiện trong vườn với chiếc vòng cổ màu đỏ son, trên đó có một chiếc chuông kêu leng keng.
Một hàng rào gỗ giản đơn chia cách mảnh sân của gian nhà chính và khu vườn nhỏ cạnh gian nhà khách – hai gian nhà vốn dĩ là một. Với phong cảnh bao gồm cây cỏ và những ngọn đồi nho nhỏ, hồ nước và hoa, khu vườn hùng vĩ của gian nhà chính hợp ý nhất với con mèo. Sau khi bước chân vào khu vườn nhỏ của nhà khách, con mèo tự nó đi khắp cùng mảnh sân rộng của gian nhà chính.
Bất cứ khi nào cửa vườn bên chúng tôi mở, con mèo có thói quen nhìn vào trong nhà chúng tôi khi nó đi ngang để đi vào hay đi ra từ sân chính. Con mèo ấy chẳng hề sợ con người chút nào. Nhưng nó cẩn thận – có lẽ chỉ là những hành vi bản năng của nó – và nó im lặng nhìn chúng tôi chằm chằm với cái đuôi chỉa thẳng lên trời, nhưng không bao giờ nó bước chân vào bên trong. Khi ở ngoài nếu chúng tôi cố ẵm nó lên, nó sẽ nhanh chân chạy phắt đi, và nếu chúng tôi ép nó để chúng tôi bồng nó, nó sẽ cắn ngay. Biết rõ bà chủ nhà luôn để mắt trông chừng, chúng tôi không bao giờ thật sự cố thuần hóa con mèo ấy.
Những sự kiện dần hé mở vào thời gian giữa mùa thu năm 1988 và đầu mùa đông, trong những tháng cuối cùng của Thời đại Showa.
***
Ghi chú của Eric Selland:
Thời đại Showa trong lịch sử Nhật là thời kỳ từ năm 1926 đến năm 1989 – dưới triều đại của Nhật hoàng Hirohito. Sự kết thúc của nó ngay vào lúc Nhật hoàng băng hà được xem là sự tương trưng của nhiều vấn đề khác nhau.